Tại Diễn đàn “Giải pháp tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm trái cây có lợi thế” sáng 18/7, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, với tổng diện tích khoảng 420.000 ha, sản lượng đạt 6,3 triệu tấn mỗi năm, nhóm cây ăn quả gồm chuối, dứa, dừa và chanh leo đang nắm trong tay dư địa rất lớn để bứt phá.
Tuy nhiên, 4 mặt hàng này cần một cách tiếp cận mới mẻ, bài bản và quyết liệt hơn, đặc biệt là về giống và công nghệ.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam: 'Giống là khâu then chốt trong việc đẩy mạnh sản xuất trái cây có lợi thế'. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Đến thời điểm hiện tại, chỉ mới ngành hàng dừa cán mốc kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD mỗi năm, chủ yếu nhờ đẩy mạnh chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm. 3 mặt hàng còn lại, gồm chuối, dứa, chanh leo, dù có sản lượng lớn, vùng trồng rộng, nhưng vẫn chưa đạt được vị thế tương xứng.
“Chúng ta cần phấn đấu để cả 4 mặt hàng này đều trở thành nhóm nông sản xuất khẩu 'tỷ đô' trong tương lai gần”, Thứ trưởng chia sẻ.
Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, điều kiện đủ để tạo nên cuộc bứt phá không nằm ngoài một cuộc cách mạng công nghệ đồng bộ, từ giống, vùng trồng, canh tác, truy xuất, đến logistics. Nếu các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp đồng thuận, Bộ sẵn sàng vào cuộc để chung tay hiện thực hóa giấc mơ này.
Để có thể tăng tốc và tạo bước chuyển rõ nét thời gian tới, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng cần nhận rõ các “nút thắt”. Trong đó, giống vẫn là khâu nền tảng nhưng lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Với nhiều doanh nghiệp, việc thương mại hóa giống vẫn là hành trình gian nan vì các rào cản chính sách.
Tuy nhiên, trở ngại này cơ bản đã được tháo gỡ nhờ sự ra đời của Nghị định 88/2025/NĐ-CP của Chính phủ - văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 193 của Quốc hội, cho phép thí điểm các cơ chế đặc biệt nhằm thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
“Đây là cơ hội để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nghiên cứu, sản xuất giống, từng bước làm chủ nguồn gen và nâng chất cây trồng”, ông Nam nhấn mạnh.
Bên cạnh giống, vùng nguyên liệu cũng là mảnh ghép then chốt quyết định tính cạnh tranh. Nhiều HTX vẫn hoạt động rời rạc, thiếu sự liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Tình trạng gom hàng từ nhiều nguồn khiến việc truy xuất nguồn gốc gặp khó, ảnh hưởng tới uy tín xuất khẩu.
Thứ trưởng cho rằng, cần phát triển các vùng nguyên liệu chuẩn, đi kèm hệ thống mã vùng, quy trình canh tác đồng nhất, đồng thời tăng cường liên kết với hợp tác xã ở cả đầu vào (giống, vật tư), lẫn đầu ra (tiêu thụ, chế biến).

Sản xuất cây giống chanh leo tại Công ty Nafoods. Ảnh: Tùng Đinh.
Một thực trạng khác cũng được Thứ trưởng lưu ý là tình trạng “lật kèo” trong hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, ông phân tích: “Phải phân biệt rõ giữa hợp đồng mua bán đơn thuần và hợp đồng liên kết sản xuất theo chuỗi. Những hợp đồng chuỗi được xây dựng trên cơ sở lợi ích bền vững và cam kết dài hạn, cho đến nay chưa có trường hợp nào bị hủy ngang”.
Trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản lý sang chính quyền hai cấp và phân cấp mạnh cho địa phương, Thứ trưởng nhấn mạnh vai trò trung gian chính sách của Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ ngày càng rõ nét.
Dù vậy, để thiết kế chính sách sát thực tiễn, cần sự đồng hành của hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp tiên phong. “Không ai hiểu đặc thù sản xuất, thị trường và chuỗi giá trị của ngành bằng chính người trong cuộc. Vai trò phản biện, đề xuất, kiến tạo từ hiệp hội là rất cần thiết”, ông bày tỏ.
Về định hướng dài hạn, Thứ trưởng Trần Thanh Nam khuyến khích các ngành hàng học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chuỗi giá trị và phát triển hạ tầng logistics, đặc biệt từ những nước có điều kiện sản xuất tương đồng.. Hệ thống kho lạnh, trung tâm đóng gói, chế biến hậu thu hoạch... cần được nâng cấp để đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế.
Thứ trưởng kết luận, muốn đạt mục tiêu “tỷ đô”, các ngành hàng cần coi giống và công nghệ là trụ cột, lấy vùng nguyên liệu chuẩn làm nền móng. Đồng thời, huy động sức mạnh của cả hệ sinh thái, từ nông dân, HTX, doanh nghiệp, đến hiệp hội.
“Nếu đồng lòng, chúng ta hoàn toàn có thể làm nên cuộc cách mạng thực sự cho trái cây Việt Nam”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam kết luận.
Với tổng diện tích hơn 420.000 ha và sản lượng vượt 6,3 triệu tấn mỗi năm, nhóm trái cây chanh dây, dứa, chuối và dừa đang trở thành trụ cột của ngành cây ăn quả Việt Nam. Trong đó, chuối dẫn đầu về sản lượng với 3 triệu tấn/năm, kế đến là dừa với 2,28 triệu tấn, dứa 860.000 tấn và chanh dây 163.000 tấn.
Về xuất khẩu, chuối đạt gần 380 triệu USD, chanh dây hơn 222 triệu USD, dứa khoảng 34 triệu USD, còn dừa đã vượt mốc 1,1 tỷ USD trong năm 2024. Các sản phẩm này đã hiện diện ở những thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và giữ thị phần lớn tại Trung Quốc.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đánh giá, những con số này cho thấy tiềm năng vươn xa của trái cây Việt nếu được tổ chức lại ngành hàng một cách bài bản, từ giống, vùng trồng đến chế biến và xây dựng thương hiệu.