| Hotline: 0983.970.780

Gỡ dần điểm nghẽn truyền tải để giải phóng năng lượng tái tạo

Thứ Sáu 17/10/2025 , 11:09 (GMT+7)

Cùng với việc phát triển nguồn điện gió, điện mặt trời, hệ thống truyền tải đóng vai trò như 'mạch máu' kết nối, bảo đảm điện từ nơi sản xuất đến được nơi tiêu thụ.

Nhiều vướng mắc tại các dự án truyền tải

Trong bối cảnh nhu cầu điện năng tăng nhanh, việc đầu tư, mở rộng hệ thống truyền tải điện trở thành yếu tố then chốt giúp Việt Nam khai thác hiệu quả các nguồn năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. Đơn cử tại đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long mới (gồm diện tích tỉnh Vĩnh Long cũ, Bến Tre và Trà Vinh) được đánh giá có tiềm năng lớn về năng lượng gió nhờ địa hình bằng phẳng, hệ thống sông ngòi dày đặc và nguồn gió ổn định quanh năm.

Theo tính toán, tiềm năng khai thác điện gió của khu vực này có thể đạt gần 3,9 GW vào năm 2030, đóng góp quan trọng cho mục tiêu đưa Đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước.

Trạm Biến áp 110kV Phước Hòa, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Trung Nguyên. 

Trạm Biến áp 110kV Phước Hòa, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Trung Nguyên. 

Dữ liệu từ Công ty CP tư vấn xây dựng điện 4, tỉnh Vĩnh Long đang vận hành Trung tâm điện lực Duyên Hải công suất trên 4,5 GW, cùng gần 700 MW từ 13 nhà máy điện gió và 2 nhà máy điện mặt trời. Nhìn chung, lưới điện hiện trạng cơ bản đáp ứng được nhu cầu giải tỏa công suất các nguồn điện hiện có trong khu vực. Tuy nhiên, lưới 110 kV tại khu vực tỉnh Bến Tre cũ đã xuất hiện tình trạng quá tải cục bộ khi các nhà máy điện gió phát công suất cao.

Giai đoạn 2026-2030, ít nhất khu vực này sẽ được bổ sung thêm khoảng 1,9GW nguồn điện gió, gây nguy cơ trạm biến áp 500kV Duyên Hải sẽ bị quá tải tới 50,8% (mang tải 150,8%) nếu không được nâng công suất. Tuy nhiên, theo đại diện Công ty Cơ điện lạnh REE, việc đầu tư dự án truyền tải tại đây có nhiều khó khăn ngay từ quá trình thực hiện các thủ tục pháp lý và giải phóng mặt bằng.

Trên bình diện chung, Bộ Công Thương nhận định, một trong những “điểm nghẽn” lớn của ngành điện hiện nay nằm ở sự thiếu đồng bộ giữa các quy hoạch, từ quy hoạch điện lực quốc gia đến quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng địa phương. Nhiều dự án truyền tải điện bị chậm tiến độ do vướng giải phóng mặt bằng, thiếu cơ chế giao doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư hoặc do các quy định pháp lý còn chồng chéo. Điều này khiến các địa phương, nhất là nơi tập trung nhiều dự án năng lượng tái tạo, khó triển khai đồng bộ lưới điện truyền tải.

Thực tiễn chỉ ra, quy định hiện hành chưa rõ cơ quan nào sẽ lập hồ sơ đề xuất chủ trương đầu tư đối với các dự án lưới điện mà toàn dựa trên cơ sở các đơn vị có nhu cầu thì lập hồ sơ đề xuất, nên chưa mang tính chủ động và đồng bộ. Nhiều địa phương còn lúng túng, không đủ nhân lực có trình độ chuyên môn để tổ chức thẩm định hồ sơ của các dự án mới được phân cấp, phần quyền nhất là các công trình cấp đặc biệt mà phải nhờ sự hỗ trợ của các cơ quan trung ương trong quá trình thực hiện.

Cần cơ chế đặc thù cho truyền tải điện

Giải pháp được các chuyên gia Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề xuất là cần cơ chế đặc thù cho các dự án truyền tải điện lớn, cho phép giao nhiệm vụ trực tiếp cho những doanh nghiệp có năng lực như EVN, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (NPT). Bên cạnh đó, cần khuyến khích mô hình chia sẻ hạ tầng truyền tải giữa các nhà đầu tư, tránh việc mỗi dự án xây dựng đường dây riêng gây lãng phí đất đai và tài nguyên.

duongday500lcvytcbc011025-20251001051401856-132749_387

Dự án đường dây 500kV Lào Cai – Vĩnh Yên vừa đóng điện vào đầu tháng 10/2025. Ảnh: EVN

Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng: “Nếu không đẩy nhanh đầu tư truyền tải, các dự án năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục ‘tắc nghẽn’ đầu ra. Cần xem lưới điện truyền tải là hạ tầng thiết yếu, tương đương như giao thông, để có chính sách ưu tiên tương xứng”.

Việc đầu tư nâng cấp lưới truyền tải cần ưu tiên xây dựng các đường dây 220kV, 500kV tại các tỉnh ĐBSCL có tiềm năng gió lớn. Đồng thời, phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS): Khuyến khích thí điểm và áp dụng hệ thống pin lưu trữ quy mô lớn để giảm áp lực cho lưới điện. Các doanh nghiệp và địa phương cũng có thể cân nhắc mô hình điện gió kết hợp điện mặt trời để tối ưu sử dụng đất và hạ tầng đấu nối.

Trong vấn đề pháp lý, cần nghiên cứu đơn giản hóa quy trình phê duyệt bằng cách áp dụng cơ chế “một cửa” điện tử cho các thủ tục đầu tư dự án điện năng lượng tái tạo, cũng như ban hành luật năng lượng tái tạo riêng nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tách bạch khỏi Luật Điện lực hiện nay.

Việc đầu tư hạ tầng truyền tải không chỉ giúp giải tỏa công suất năng lượng tái tạo mà còn là bước đi cần thiết trong lộ trình giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam theo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được mục tiêu này, năng lượng tái tạo phải trở thành nguồn cung chủ lực, thay thế dần các nguồn điện hóa thạch.

Theo Quy hoạch Điện VIII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, trong đó điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, sinh khối) chiếm khoảng 30,9–39,2% tổng công suất nguồn điện. Cùng với đó, hạ tầng truyền tải sẽ được đầu tư mạnh mẽ để nâng công suất hệ thống truyền tải 500kV, 220kV và hiện đại hóa các trạm biến áp, đáp ứng yêu cầu truyền tải từ các vùng giàu tiềm năng (Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long) đến các trung tâm phụ tải lớn.

Nếu hệ thống truyền tải không được đầu tư kịp thời, sẽ không thể hấp thụ được nguồn năng lượng tái tạo ngày càng lớn. Khi đó, cơ hội giảm phát thải và hướng đến Net Zero của Việt Nam cũng sẽ bị chậm lại.

Ngành năng lượng hiện chiếm tới hơn 60% tổng lượng phát thải khí nhà kính quốc gia. Việc tăng tỷ trọng năng lượng sạch, cùng với đầu tư lưới điện truyền tải thông minh, có thể giúp giảm hàng chục triệu tấn CO₂ mỗi năm, đồng thời tạo điều kiện để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ carbon nội địa và quốc tế trong giai đoạn sau năm 2028.

Xem thêm
Nghệ An đảm bảo nguồn cung vật liệu xây dựng ổn định

UBND tỉnh Nghệ An yêu cầu các Sở, ngành, địa phương khẩn trương rà soát, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo nguồn cung vật liệu xây dựng ổn định.

Quảng Ngãi thu gom triệt để rác thải nhựa trên biển và đại dương

Mục tiêu của tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2030 sẽ thu gom triệt để, giảm 70% rác nhựa trên biển và đại dương, xây dựng môi trường biển xanh, sạch.