Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, 80 năm qua là chặng đường lịch sử rất dài và gian khó, thiên tai diễn biến ngày càng bất thường với tính chất ngày càng cực đoan và khốc liệt. Lịch sử đã ghi lại những thời khắc đau thương như trận lũ lịch sử 8/1945, 8/1971 trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, năm 1999 trên các lưu vực sông các tỉnh miền Trung, cơn bão Linda năm 1997, cơn bão Damrey năm 2017 và gần đây nhất là tổ hợp thiên tai “bão chồng bão, lũ chồng lũ” lũ quét, sạt lở đất,...
Nhưng lịch sử cũng ghi nhận 80 năm qua là một chặng đường nâng cao vượt bậc về nhận thức và hành động của Việt Nam đối với thiên tai và ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ đưa hệ thống công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai lên những tầm cao mới.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp trao đổi với đại diện Unicef tại Lễ mít tinh hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia phòng chống thiên tai 2025 (tổ chức ở Lào Cai ngày 17/5/2025). Ảnh: Hải Đăng.
Vừa chống giặc ngoại xâm, vừa phòng chống thiên tai
Do ảnh hưởng chế độ khí hậu không thuần nhất nên khí hậu giữa các vùng, miền liên tục biến đổi từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, từ miền núi đến đồng bằng. Đây là tác nhân chính gây nên những hiện tượng thiên tai có tính chất cực đoan, khốc liệt như lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn…
Trong mùa mưa, lượng mưa tập trung trong thời gian ngắn chỉ vài tháng nhưng tổng lượng mưa có thể đạt được 60%-85% tổng lượng mưa cả năm, đặc biệt có những trận mưa chỉ trong vài ngày nhưng có thể đạt tới hàng nghìn milimet như ở khu vực thượng nguồn sông Hương, sông Vu Gia - Thu Bồn đã tạo ra những lượng nước khổng lồ với hàng tỷ mét khối đổ dồn về phía hạ du - trung tâm kinh tế văn hóa, kinh tế, chính trị của cả khu vực; gây nên những trận lũ lụt kinh hoàng, cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người phá hủy cơ sở hạ tầng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế trong vùng.
Trong khi đó, nhiều khu vực tổng lượng mưa cả năm rất thấp, chỉ khoảng 800-1.000 mm và trong thời gian dài mùa khô (5-6 tháng) hầu như không có mưa, kèm theo tình trạng nắng nóng triền miên, như: khu vực Nam Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bắc Bình Thuận, là tác nhân gây ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp của nhân dân.
Tại các tỉnh miền núi, tần suất xuất hiện các trận lũ quét, sạt lở đất có xu hướng gia tăng rõ rệt, cũng như quy mô và phạm vi ảnh hưởng ngày càng lớn hơn.
Hệ thống đê sông Hồng có vai trò đặc biệt quan trọng, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của hàng triệu người dân.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, từ năm 1945 đến năm 1954, đất nước vừa phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng đất nước và phòng chống thiên tai. Các tỉnh miền Bắc đã đắp gần 7 triệu mét khối đất củng cố các đoạn đê xung yếu, khôi phục dần lại các công trình bị thực dân Pháp phá hoại như đập Thác Huống, Cầu Sơn, cống Liên Mạc, Trung Lương, Nam Đàn, hệ thống thủy lợi Đồng Cam… để đảm bảo an toàn cho nhân dân, phát triển nông nghiệp và đóng góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Từ năm 1954, đất nước ta bước vào giai đoạn mới của lịch sử. Miền Bắc được giải phóng. Tiếng súng vừa dứt thì hạn hán, lũ lụt lại kéo đến trên khắp khu vực Bắc Trung Bộ của nước ta.
Chỉ trong 3 năm 1955-1957, chúng ta đã đắp được gần 37 triệu m3 đất và thả hơn 638 nghìn m3 đá để bảo đảm cho hệ thống đê Bắc Bộ và đê Liên khu IV, đã bảo đảm an toàn không bị vỡ đê vào hai năm này dù nước lũ có lên cao.
Giai đoạn này cũng đánh dấu sự chuyển hướng tư duy chiến lược đúng đắn và lâu dài đối với công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai. Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam đã định ra mục tiêu phấn đấu phải thắng được hạn hán, úng thủy, bão, xâm nhập mặn và lụt lớn. Đồng thời, quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng được Đảng chỉ đạo là “một vấn đề trọng yếu”, có vị trí then chốt trong việc đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, được thể hiện qua nội dung của Chỉ thị số 164 CT/TW ngày 28/9/1959 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Trong đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quy hoạch trị thủy sông Hồng là phải diệt trừ tận gốc nạn lụt ở hạ du, khắc phục nạn hạn hán, úng, mặn, phục vụ thắng lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Ra sức trị thủy, đảm bảo an toàn cho hàng triệu người dân
Thời kì 1961-1965 trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, ở Bắc Bộ đã đạt được cột mốc mà các nhà trị thủy danh tiếng người Pháp không dám mơ ước, đó là đảm bảo chống lũ với mực nước +13,3m tại Hà Nội, +6,5m tại Phả Lại, đảm bảo sự an toàn cho hàng triệu người dân, cho hàng trăm nghìn ha đất sản xuất ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và hiệu quả của hệ thống công trình đã được thử thách qua trận lũ lớn năm 1968 và trận lũ lịch sử năm 1971. Đây cũng là giai đoạn đã tạo nên cơ sở vật chất, kỹ thuật rất quan trọng cho ngành nông nghiệp nói riêng, cho ngành kinh tế Việt Nam nói chung.
Phỏng dựng công trường đắp đê sông Mã trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Giai đoạn sau năm 1965, đất nước ta vừa phải chống lại chiến tranh phá hoại mang tính chất hủy diệt ở miền Bắc, vừa phải dốc sức chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam. Mặc dù, những tuyến đê trọng yếu của sông Hồng nhiều lần bị máy bay của Mỹ oanh tạc, nhưng nhờ thực hiện tốt công tác củng cố đê và hộ đê nên hệ thống đê điều vẫn được giữ vững trước những trận lũ lớn năm 1965, 1966, 1969, 1970.
Đặc biệt, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), cùng với sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, hệ thống đê điều và công trình phòng chống lũ có sự phát triển mạnh mẽ. Sau 15 năm xây dựng, công trình thủy điện Hòa Bình đã hoàn thành, đi vào hoạt động, góp phần to lớn trong công tác trị thủy, phòng chống thiên tai bão lũ trên vùng Châu thổ sông Hồng. Cùng với hồ Thác Bà và hệ thống đê điều khu vực đồng bằng Bắc bộ, hồ Hòa Bình đã thực hiện được nhiệm vụ chống lũ lịch sử tháng 8 năm 1971, cắt giảm 1,14 m mực nước lũ xuống mức +13,3 m, là mức đê điều vùng đồng bằng Bắc bộ có thể đảm bảo an toàn và hiệu quả của hệ thống công trình đã được minh chứng rõ ràng trong trận lũ lịch sử năm 1996.
Chúng ta sẽ không còn phải chứng khiến những khoảng khắc tang thương của dân tộc Việt Nam như trận lũ năm 1945 làm hơn 2 triệu người chết, chết đói, mất tích hay khoảnh khắc trận Đại Hồng Thủy năm 1971 làm hơn một trăm nghìn đồng bào chết và mất tích.
Hàng loạt các hệ thống công trình lớn, nhiều hồ chứa lớn với dung tích trữ hàng chục đến hàng trăm triệu mét khối cũng triển khai xây dựng trên khắp mọi miền của Tổ quốc, không những đã đem lại hiệu quả rất lớn trong phát triển sản xuất nông nghiệp mà còn góp phần không nhỏ trong việc làm chậm lũ, giảm lũ, bảo vệ an toàn cho người dân vùng hạ du. Đặc biệt, công tác xây dựng hệ thống thủy lợi đã phát triển rất mạnh mẽ ở những khu vực có khí hậu khắc nghiệt như khu vực Trung bộ, như: hồ Kẻ Gỗ ở Hà Tĩnh với dung tích 425 triệu m3 có nhiệm vụ tưới cho 21.136 ha; hệ thống thủy lợi Thạch Nham ở Quảng Ngãi có nhiệm vụ tưới cho 50.000 ha, hồ Thuận Ninh ở Bình Định có nhiệm vụ tưới cho 8.000 ha, hệ thống sông Quao ở Bình Thuận có nhiệm vụ tưới cho 8.200 ha, hồ Ayun Hạ ở Gia Lai có dung tích 253 triệu m3 có nhiệm vụ tưới cho 13.500 ha,…
Trong khi đó, ở khu vực Nam Bộ, công tác thủy lợi được phát triển rất mạnh mẽ với mục tiêu ngăn mặn, tiêu phèn, phòng chống lũ, nhiều công trình lớn đã được xây dựng như hồ Dầu Tiếng với dung tích 1,58 tỷ m3 hay kênh Hồng Ngự được hoàn thành năm 1987, là công trình mang tính đột phá, có nhiệm vụ đưa nước từ sông Tiền vào Bình Châu đến Trà Cú Thượng, đảm bảo cấy cho 150.000 ha đất phèn hoang hóa, mở ra chiến lược khai hoang vùng Đồng Tháp Mười.
Những công trình kỳ vĩ
Về mặt phòng chống lũ, công tác thủy lợi đã đạt được hiệu quả rõ rệt trên khu vực Nam Bộ, đã đảm bảo thêm được 1 triệu ha trồng cấy 2 vụ có năng suất cao mà trước đây là vùng chỉ cấy được 1 vụ lúa nổi, đảm bảo cuộc sống cho hàng chục vạn hộ dân ở những vùng trước đây không thể cư trú do thường xuyên bị ngập sâu như vùng thượng châu thổ Tân Châu, Châu Đốc, Bắc Vàm Nao, Đồng Tháp Mười.
Với nguồn vốn từ Chính phủ và ODA, nhiều hệ thống công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai lớn, đa mục tiêu đã được đầu tư xây dựng không những đã mở rộng diện tích phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước cho sinh hoạt và các ngành kinh tế mà còn nâng cao mức đảm bảo phòng chống lũ cho nhiều khu vực quan trọng như hệ thống công trình Cửa Đạt, Ngàn Trươi, Tả Trạch, Sông Tích, Nước Trong, Định Bình - Văn Phong, Krông Pach Thượng, hệ thống thủy lợi Tân Mỹ, cống Cái Lớn - Cái Bé, cống âu thuyền Ninh Quới,…
Hồ chứa nước Sông Cái ở Ninh Thuận với hệ thống 5 đập dài 2.770 mét, cao 66 mét, dung tích xấp xỉ 220 triệu khối. Đây công trình thủy lợi lớn nhất khu vực Nam Trung bộ, “giải khát” cho 7.480 ha đất nông nghiệp ở tỉnh Ninh Thuận.
Nhiều công trình đã được áp dụng công nghệ thi công mới vừa nâng cao chất lượng công trình, rút ngắn thời gian thi công xây dựng công trình như công trình đầu mối Cửa Đạt có chiều cao 119 m được thi công theo công nghệ đập đá đổ bê tông bản mặt, có khả năng trữ được 1,45 tỷ m3 nước, góp phần giảm lũ với tần suất 0,6%; hay công trình Định Bình được thi công theo công nghệ tiên tiến bê tông trọng lực đầm lăn có nhiệm vụ đa mục tiêu như chống lũ, cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản và kết hợp du lịch.
Sức mạnh của công nghệ kỹ thuật số cũng đã tạo đà cho những định hướng, chiến lược phòng chống thiên tai dài hạn, bền vững; cho phép dự báo sớm, mô phỏng chi tiết những diễn biến thiên tai thảm họa sóng thần, siêu bão, lũ lụt, lũ quét, vỡ đập… đóng góp phần không nhỏ trong việc chủ động hoạch định các phương án ứng phó cũng như trong triển khai công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó thiên tai, thảm họa theo thời gian thực, góp phần không nhỏ trong việc giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản trước sức tàn phá khủng khiếp của thiên tai.
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức phía trước nhưng thủy lợi, phòng, chống thiên tai sẽ vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu nhanh chóng trên toàn thế giới.












![Dựng 'thành lũy' trước thiên tai: [Bài 5] Những công nghệ nổi bật](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/phucpm/2025/11/10/0037-0021-images1955226_f-nongnghiep-000009.jpg)


