Ông Nguyễn Cảnh Dinh, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi, nguyên Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương cho rằng, việc nghiên cứu thành tựu và bài học phòng chống lũ lụt sông Hồng có nhiều ý nghĩa cho công tác quản lý, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Báo Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ quan điểm của ông về vấn đề này.
Ông Nguyễn Cảnh Dinh - nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi, nguyên Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương. Ảnh: Đồng Thái.
Định mệnh ám ảnh vỡ đê sông Hồng
Theo ông Dinh, Đồng bằng sông Hồng (khu vực hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình) là vùng có mật độ dân số cao nhất Việt Nam, với tổng diện tích gần 1 triệu km2, trong đó 58,4 % diện tích đồng bằng nằm dưới đỉnh triều +2m, 90% diện tích nằm dưới +6m. Độ cao trung bình của Hà Nội khoảng +4m đến +5m so với mặt biển.
Nước lũ uy hiếp Đồng bằng sông Hồng chủ yếu đến từ các nhánh của sông Hồng và xếp theo thứ tự nguy hiểm là sông Đà, sông Lô, sông Thao. Các sông nhánh của lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình đều chụm lại ở đầu đồng bằng theo hình rẻ quạt, các trung tâm mưa lớn đều nằm ở phía Việt Nam.
Lũ lụt sông Hồng từng là nỗi ám ảnh đối với nhân dân vùng đồng bằng. Ảnh: Trung tâm lưu trữ quốc gia III.
Đặc điểm tự nhiên của lưu vực sông Hồng là nước lũ dồn về hạ du thường rất nhanh, rất mạnh. Trước năm 1945, vỡ đê sông Hồng gần như là một định mệnh hàng năm, ám ảnh nhân dân vùng đồng bằng. Thời vua Tự Đức, riêng đoạn đê tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Khoái Châu 18 năm liền bị vỡ, bị tràn. Thời thuộc Pháp, trong 45 năm đầu thế kỷ XX đã có 18 lần vỡ đê, bình quân 2 năm/lần. Vỡ đê xảy ra khi mực nước lũ tại Hà Nội (đo tại cầu Long Biên) chưa đến +11m. Sau mỗi lần vỡ, đê lại tiếp tục được đắp cao, đắp to; đến năm 1945 đê đã được thiết kế để giữ mực nước tại Hà Nội đến +12m.
Theo tài liệu ghi chép, trận lũ năm 1945 thuộc loại lớn thứ 2 trong lịch sử. Đê bị vỡ lúc mực nước tại Hà Nội lên đến +11,45m, gây ngập lụt gần một nửa vùng đồng bằng, ảnh hưởng trên 2 triệu dân. Nếu đê không vỡ thì mực nước tại Hà Nội có thể lên đến +14,1m, lưu lượng tại Sơn Tây là 33.500 m3/s, tần suất xuất hiện khoảng 100 năm/lần.
Hoàn thiện cấu trúc về tổ chức tích hợp thể chế chính trị - xã hội để đối mặt với lũ lụt
Từ sau 1954, đê đã được tăng cường củng cố quyết liệt. Mức thiết kế của đê chống được mực nước lũ tại Hà Nội là +13,3m, dự kiến cùng với việc phân chậm lũ và cắt lũ trên hồ chứa Thác Bà có thể chống được lũ như năm 1945, là lũ lớn nhất trước đó.
Năm 1971, trên hệ thống sông Hồng đã xuất hiện một trận lũ lớn nhất trong trong lịch sử, lớn hơn nhiều so với lũ 1945. Khi mực nước tại Hà Nội lên đến +14,13m, vượt quá mức thiết kế của đê là 0,83m thì đê vỡ. Đê vỡ lúc nước lũ đã đến đỉnh và bắt đầu xuống thấp. Mực nước lũ lên xấp xỉ gầm cầu Long Biên, tràn qua mặt cầu sông Đuống, phải điều 2 toa tàu chở đầy đá đến để chống lật trôi cầu.
Trận lũ đã gây ngập 94 huyện, 1062 xã của các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng, Vĩnh Phú, dân số trong vùng ngập lụt lên tới 2,9 triệu người, làm chết 594 người. Hơn 20 vạn ha lúa, hoa màu mất trắng; nhiều tài sản bị mất mát, hư hỏng; nhiều nhà cửa, kho tàng bị ngập; nhiều cầu cống, công trình thủy lợi bị hư hỏng, giao thông bị ách tắc, nhiều đường tải điện và cơ sở điện lực bị uy hiếp an toàn.
Nhân dân ở Gia Lâm, Hải Dương, Hưng Yên khắc phục khó khăn do lũ làm sạt lở đê sông Hồng. Nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia III.
Các hoạt động sản xuất, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng đều bị trở ngại. Theo tính toán nếu không có các biện pháp khác đã cắt giảm lũ, thì mực nước tại Hà Nội có thể lên tới +14,8m, lưu lượng tại Sơn Tây 38.000 m3/s, tần suất xuất hiện khoảng 250 năm/lần.
Nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng về mọi mặt của Đồng bằng sông Hồng, nhất là trong thời kỳ đất nước còn bị chia cắt, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư lớn cho công tác phòng, chống thiên tai nói chung và công tác phòng chống lũ lụt hệ thống sông Hồng nói riêng.
Từ những kinh nghiệm lịch sử, theo thời gian, căn cứ tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, ngành Thủy lợi đã nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ từng bước xây dựng, hoàn thiện cấu trúc về tổ chức tích hợp thể chế chính trị - xã hội từ cấp trung ương đến huyện, xã để đối mặt với lũ lụt. Cấu trúc này đã phát triển qua nhiều thập kỷ cho phép chúng ta bảo vệ cuộc sống của người dân và phát triển tiềm năng nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Hồng rộng lớn.
Ông Nguyễn Cảnh Dinh tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt kiểm tra tình hình miền Trung sau lũ, ảnh chụp năm 1993.
Để có chiến lược đúng đắn loại trừ nguy cơ vỡ đê gây ngập lụt Đồng bằng sông Hồng và khai thác tối ưu nguồn nước của Hệ thống sông Hồng, năm 1960 Đảng và Nhà nước đã chỉ thị tiến hành Quy hoạch khai thác và trị thủy sông Hồng. Ủy ban Quy hoạch sông Hồng đã được thành lập để nghiên cứu quy hoạch tích hợp việc xây dựng các lĩnh vực khai thác thủy điện và hệ thống bậc thang chủ yếu trên các sông nhánh chính thượng du, tưới tiêu và cung cấp nước, khai thác vận tải đường thủy và phòng chống lụt.
Ngày 24/5/1972 Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết liên tịch số 55-CP về công tác phòng chống lũ lụt cho Hệ thống sông Hồng, đưa ra 6 biện pháp cơ bản ngắn hạn và dài hạn là: Tích cực trồng rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn; Xây dựng các hồ chứa nước loại lớn và loại vừa ở thượng lưu các sông; Tăng cường, củng cố đê; Chuẩn bị để làm tốt công tác phân chậm lũ khi cần thiết; Tích cực khai thông dòng chảy để thoát lũ;
Những ‘cầu dao’ cắt lũ và tuyến đê vững chắc
Theo đó, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư lớn, nhân dân và các lực lượng vũ trang đã giành rất nhiều công sức, tạo nên hệ thống phòng chống lũ sông Hồng rất hiệu quả. Từ năm 1954 đến 1975 đã đắp gần 170 triệu m3 đất, hơn 2 triệu m3 đá, hình thành hơn 2 nghìn km đê sông sông Hồng - Thái Bình khép kín. Từ đó đến nay không ngừng tăng cường và củng cố đê, nâng cao chất lượng thân đê, móng đê, các kè đá, các cống dưới đê, kiên cố hóa, hiện đại hóa dần toàn hệ thống đê để bảo đảm giữ vững chắc toàn hệ thống sông Hồng chống lũ tương ứng mực nước tại Hà Nội có thể lên đến +13,3 - +13.5 m.
Đập thủy điện Hòa Bình - một trong những công trình thế, có dung tích chứa lũ lớn trong thời kỳ lũ chính vụ, bảo vệ hạ du lưu vực sông Hồng.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế, Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn để xây dựng nhiều công trình thế kỷ như đập thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu trên sông Đà, các công trình lớn như Bản Chát (Nậm Mu, sông Đà), Tuyên Quang (sông Gâm), Thác Bà (sông Chảy); mở ra cơ chế để các nhà đầu tư làm nhiều thủy điện khác trên các nhánh sông; tạo ra hệ thống hồ chứa nước có tổng dung tích chứa hàng chục tỉ m3 nước trên thượng nguồn sông Hồng để khai thác tối ưu tài nguyên nước, nếu quản lý tốt có thể cắt giảm lũ thường xuyên rất hiệu quả.
Đặc biệt Nhà nước đã giao nhiệm vụ cho một số hồ chứa lớn trên sông Đà, cùng với thủy điện Tuyên Quang và thủy điện Thác Bà dành sẵn một dung tích trống trong suốt thời kỳ lũ chính vụ hàng năm là 8,5 tỉ m3 để sẵn sàng cắt giảm lũ sông Hồng ngay từ thượng nguồn; bảo đảm an toàn đối với lũ lớn như lũ 1971 và các lũ có tần suất 500 năm/lần, mực nước lũ tại Hà Nội thấp dưới +13,3m - +13,5 m; cùng hệ thống hồ chứa và hệ thống đê kiên cố hiện có, có thể bảo đảm an toàn chống lũ cho Thủ đô và cả Đồng bằng sông Hồng.
Năm 1996 sông Hồng đã xảy ra trận lũ lớn thứ 3 sau lũ 1971 và lũ 1945. Tại thời điểm đó mới chỉ có hồ Hòa Bình tham gia cắt lũ, đã cắt giảm mực nước lũ tại Hà Nội theo tính toán có thể lên đến +13,47m, xuống thực tế còn +12,42m (hơn 1m nước); loại bỏ được nguy cơ vỡ đê hiện hữu tại thời điểm khi bão số 4 đổ bộ vào đất liền gây sóng lớn, đã tràn lên mặt đê tại các đoạn đê sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, đê hữu Đuống phía thượng cầu Đuống và nhiều nơi khác.
Tuyến đê sông Hồng kiểu mẫu tại Hưng Yên giữ bình yên cho hàng chục ngàn người dân.
Đây là một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp chống lũ sông Hồng của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Làm vợi bớt nỗi lo lắng hàng năm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước mỗi khi mùa lũ tới; giải tỏa được gánh nặng như một định mệnh ngàn đời về thiệt hại do vỡ đê, lụt lội của nhân dân Đồng bằng sông Hồng. Chúng ta cũng giảm bớt được nỗi đau xót phải chứng kiến cảnh chạy lũ hàng năm của người dân giữa 2 đê, những mất mát về vật chất và con người do lũ lụt.
Nhiệm vụ quan trọng của chúng ta hiện nay là tiếp tục thực hiện nghiêm túc quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa thượng nguồn sông Hồng; phối hợp, quản lý chặt chẽ các hồ thủy lợi - thủy điện; thường xuyên củng cố đê điều, củng cố lực lượng hộ đê chống lụt, thực hiện tốt các chương trình trồng rừng và bảo vệ rừng, khơi thông thoát lũ… Vì có thể giai đoạn này đang thuộc chu kỳ nước lũ sông Hồng thấp, chưa thấy xuất hiện những trận lũ lớn như lũ 1971, 1945, hay nhỏ hơn như lũ 1996.
Theo tính toán dự báo nếu gặp các lũ lớn như lũ 1971 hoặc lớn hơn thì khi các hồ cắt lũ triệt để, mực nước tại Hà Nội vẫn còn rất cao như đã nói ở trên, nếu trường hợp này trùng với lúc bão đổ bộ vào đồng bằng thì sẽ hết sức phức tạp; chưa kể còn nhiều vùng thuộc lưu vực các hồ chứa chưa khống chế hết. Hơn nữa hệ thống đê và nền móng đều là đất, nếu sơ suất có khi lũ còn thấp vẫn có thể vỡ đê như đã từng xảy ra.
Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó, trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự. Báo Nông nghiệp và Môi trường sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện này.








![Dựng ‘thành lũy’ trước thiên tai: [Bài 2] Chuyển trạng thái từ bị động sang chủ động](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/06/0242-2223-160125_902.jpg)

![Dựng 'thành lũy' trước thiên tai: [Bài 1] Triết lý và pháp lý chế ngự thiên nhiên](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/05/z7191874895311_80e84bcdcee9d7e5d30926d33cd07a4a-161316_726-163651.jpg)




