Đắp đê, phòng lụt và chuyện thưởng phạt phân minh
Trong thời đại Hồ Chí Minh, 80 năm kể từ khi Người ký Sắc lệnh số 70/SL thành lập Ủy ban Trung ương Hộ đê (tiền thân của mô hình phân cấp quản lý đê điều thống nhất từ Trung ương đến cơ sở), công tác phòng, chống thiên tai mặc dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng luôn được lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm và sự nỗ lực chung tay của toàn xã hội.
Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến nay đã tạo dựng được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cơ bản hoàn thiện, kiện toàn và từng bước nâng tầm tổ chức bộ máy, đầu tư nâng cấp, sửa chữa hệ thống cơ sở hạ tầng, công trình phòng chống thiên tai, nâng cao năng lực cộng đồng nhờ đó giảm thiểu tác động tiêu cực, gặt hái được thành tựu to lớn, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Bác Hồ nghe báo cáo về tình hình lũ lụt tại Bắc Ninh ngày 25/7/1960. Ảnh: Tư liệu.
Theo Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1995, trong một lần nói chuyện với nông dân và điền chủ Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví việc đắp đê, phòng, chống lũ lụt như việc uống thuốc phòng bệnh, phải chủ động làm trước, làm tốt trước khi có lũ, không nên đợi ốm rồi mới uống thuốc.
Quốc lệnh của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban bố ngày 26/01/1946 cũng chỉ rõ, Nhà nước khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân góp công, góp của vào việc đắp đê, xây dựng cầu, cống. Ai bỏ tiền ra đắp đê, xây dựng cầu, cống sẽ được thưởng (điều 7). Ngược lại, ai tự ý phá hoại sẽ bị phạt tù, thậm chí là tử hình.
Trong công tác phát triển nguồn nhân lực phòng, chống thiên tai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lề lối làm việc, tác phong công tác, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ hằng ngày. Người chỉ rõ, trong tác phong công tác phải rất chi tiết, tuyệt đối tránh lối làm việc quan liêu, khoán trắng: “Trong việc đắp đê giữ đê, kế hoạch phải rất tỉ mỉ, phân công phải rất rành mạch, chuẩn bị phải rất chu đáo, lãnh đạo phải rất thống nhất. Cán bộ quân, dân, chính, đảng, những vùng ấy phải xem việc đắp đê giữ đê là việc chính. Phối hợp phải thật chặt chẽ. Chỉ đạo phải thật thiết thực. Tổ chức phải thật đầy đủ. Tuyệt đối chống cách khoán trắng, chống quan liêu, mệnh lệnh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm đê Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, ngày 5/9/1957. Ảnh: Tư liệu.
Một điều rất quan trọng là cán bộ phải biết xây dựng kế hoạch làm việc hiệu quả và đặc biệt phải luôn dựa vào lực lượng của nhân dân, có quyết tâm khắc phục mọi khó khăn thì nhất định làm tròn nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó. Người chỉ rõ: “Cán bộ các cấp phải nhận rõ trách nhiệm, phải có kế hoạch thiết thực và đầy đủ, phải đi sát với nhân dân”, đồng thời “cán bộ phải đi xuống cơ sở cùng với đồng bào bàn kế hoạch và thực hiện kế hoạch phòng và chống lụt, bão cho tốt.
Hoàn thiện thể chế về phòng, chống thiên tai
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đánh giá, đến nay, công tác phòng, chống thiên tai của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, ngày càng có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; hệ thống cơ sở hạ tầng và công trình phòng, chống thiên tai ngày càng hiện đại và hiệu quả, năng lực cộng đồng không ngừng được nâng cao.
Cùng với đó, công tác xây dựng thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống thiên tai luôn được coi trọng, phúc đáp kịp thời diễn biến ngày càng phức tạp của các loại hình thiên tai, đặc biệt là thiên tai với tác động của biến đổi khí hậu, qua đó góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Cũng theo ông Nguyễn Khắc Định, Việt Nam với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm ở một trong 5 “ổ bão lớn” của thế giới, hàng năm phải đối mặt với nhiều loại thiên tai xảy ra. Trong những năm gần đây, diễn biến thiên tai và thời tiết ở Việt Nam ngày càng có nhiều biểu hiện bất thường và phức tạp hơn. Biến đổi khí hậu và tình trạng trái đất ấm lên được cảnh báo sẽ làm cho thiên tai trở nên tồi tệ hơn trên phạm vi toàn cầu. Ở cấp độ quốc gia, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với sự gia tăng dân số càng làm gia tăng các nguy cơ, hiểm họa trước thiên tai.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định (thứ 4 từ phải sang) trao quà động viên người dân ảnh hưởng do mưa lũ ở Thái Bình vào tháng 9/2024. Ảnh: Nam Hồng.
Thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước đã gây ra nhiều tổn thất về người và tài sản. Bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng 500 người, bị thương hàng nghìn người, thiệt hại về kinh tế từ 1,0 - 1,5% GDP. Thiên tai đang là nguy cơ lớn đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Thực tế này đòi hỏi phải có khung pháp lý phù hợp, làm cơ sở cho việc tăng cường công tác phòng, chống thiên tai ở Việt Nam. Do đó, ngày 19/6/2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013/QH13.
“Luật Phòng, chống thiên tai gồm 6 chương với 47 điều, quy định về hoạt động phòng, chống thiên tai, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động phòng, chống thiên tai, quản lý nhà nước và nguồn lực bảo đảm việc thực hiện phòng, chống thiên tai. Luật Phòng, chống thiên tai ra đời đã hình thành một đạo luật chung điều chỉnh các loại thiên tai; quy định cụ thể việc lồng ghép nội dung phòng, chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Bộ, ngành và địa phương để có giải pháp phát triển đồng bộ và bền vững trước thiên tai. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc chủ động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, đồng thời tham gia vào công tác chung của cộng đồng,...”, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đánh giá.
Mặt khác, Luật Phòng, chống thiên tai còn góp phần nội luật hóa các Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia như Nghị định thư Kyoto và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ thiên tai, Hiệp định ASEAN về quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp (AADMER)...
Đặc biệt, ngày 24/3/2020, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, trong đó, giao nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Nhằm thể chế hóa nhiệm vụ nêu trên, đồng thời khắc phục một số bất cập, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Đê điều và Luật Phòng, chống thiên tai, ngày 17/6/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 60/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều. Luật số 60 đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống thiên tai cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với bối cảnh, tình hình mới.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho rằng, qua mỗi thời kỳ, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, hoàn thiện pháp luật về đê điều, phòng, chống lụt bão, phòng, chống thiên tai luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, xây dựng. Khởi đầu là các sắc lệnh của Chính phủ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đến nay, sau 75 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật về phòng, chống thiên tai đã cơ bản đầy đủ, đồng bộ, với các đạo luật của Quốc hội, các pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nhiều nghị định, thông tư của Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan. Để tiếp tục đưa pháp luật về phòng, chống thiên tai vào cuộc sống, cần làm thật tốt công tác tổ chức triển khai thi hành pháp luật, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và nâng cao năng lực phản ứng chính sách để xử lý các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn, góp phần phát triển bền vững đất nước.















