Phát biểu tại hội thảo "Thể chế quy hoạch – cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh" diễn ra tại thành phố Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình) sáng 6/6, GS.TS Mai Trọng Nhuận cho rằng, vấn đề quy hoạch biển cấp quốc gia và cụ thể hoá quy hoạch tổng thể quốc gia mang tính khung, tổng thể, tích hợp, đa ngành sẽ định hướng cho các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo theo hướng bền vững, tạo sự thống nhất hữu cơ trong hệ thống quy hoạch phát triển giữa các vùng.

GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Khương Trung.
Tuy nhiên, quy hoạch biển phải tuân thủ các yếu tố khách quan về điều kiện tự nhiên của hệ sinh thái biển, các quy định của pháp luật, các thỏa thuận phân định biển Việt Nam ký với các nước.
Điều này sẽ giúp Việt Nam tiến tới mục tiêu năm 2030, tạo lập cơ sở cho phát triển nhanh và bền vững, góp phần hình thành, phát triển các ngành kinh tế biển vững mạnh, tạo nhiều sinh kế hiệu quả cho người dân. Kinh tế biển phát triển là điều kiện để bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích quốc gia trên biển, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa biển.
Về mục tiêu cụ thể, đển năm 2030, kinh tế biển sẽ đóng góp 10% GDP cả nước. Kinh tế của 28 tỉnh/thành phố có biển chiếm 65 - 70% GDP cả nước, thu nhập bình quân đầu người gấp 1,2 lần thu nhập bình quân của cả nước, mở rộng đảo ở những nơi có điều kiện phù hợp, phát triển hệ thống đô thị ven biển. Về xã hội, kinh tế biển góp phần đạt chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố có biển ở mức cao hơn mức trung bình của cả nước, các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục.
Về môi trường, quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, hải đảo. Kiểm soát, khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi và chịu tải của các hệ sinh thái biển. Tăng diện tích các khu bảo tồn, bảo vệ biển và ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Tiếp tục phục hồi rừng ngập mặn, ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt đối với rác thải nhựa...

Cần phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển theo hướng xanh, công nghệ mới, tiên tiến gắn với bảo vệ môi trường. Ảnh: Kim Sơ.
Để đạt được các mục tiêu trên, theo GS.TS Mai Trọng Nhuận, Việt Nam cần triển khai các vấn đề trọng tâm và khâu đột phá. Đầu tiên là hoàn thiện thể chế, chính sách thực hiện quy hoạch, phát triển các nguồn lực thực hiện quy hoạch. Điều này sẽ thúc đẩy việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ logistics, kết cấu hạ tầng ven biển, hải đảo đa mục tiêu, đồng bộ, hiện đại.
Tiếp theo là các vấn đề phát triển du lịch biển đảo bền vững, có trách nhiệm, sáng tạo, gắn với phát triển đô thị đảo xanh, thông minh. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn, carbon thấp, có khả năng chống chịu cao, ưu tiên phát triển nuôi biển và đánh bắt xa bờ gắn với bảo tồn biển và văn hoá biển, đảo. Phát triển nhanh và bền vững các loại năng lượng sạch, xanh từ biển, ưu tiên phát triển điện gió ngoài khơi, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về tiềm năng và phát triển ngành dầu khí, khoáng sản rắn, vật liệu xây dựng dưới đáy biển.
Định hướng phát triển các ngành kinh tế biển của Việt Nam cần theo hướng tăng diện tích, quy mô khu vực biển được bảo vệ, bảo tồn. Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển.
Bảo vệ, nâng cao giá trị dịch vụ hệ sinh thái, hướng tới nền kinh tế biển xanh. Đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch đặc thù phù hợp với điều kiện địa lý, tài nguyên du lịch tại vùng, khu vực và địa phương. Ưu tiên phát triển hệ thống cảng biển, logistics, tối ưu hóa việc vận chuyển hàng hóa và tạo ra kết nối hiệu quả với các thị trường nội địa và quốc tế.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển theo hướng xanh, công nghệ mới, tiên tiến gắn với bảo vệ môi trường. Chuyển hướng sản xuất nghề cá từ gần bờ, ven đảo sang nuôi biển gắn với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản. Đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Thúc đẩy và khuyến khích đầu tư xây dựng, khai thác điện gió ngoài khơi, công nghiệp hydrogen, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác
Phát triển các ngành kinh tế biển mới, nhiều tiềm năng (dược liệu biển, y học biển, hóa học biển, các vật liệu mới).