Tại cuộc họp sáng 5/9 về dự thảo Thông tư quy định một số nội dung trong lĩnh vực lâm nghiệp, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm Trần Quang Bảo nhấn mạnh vào nội dung mới - mã số rừng trồng. Theo đó, đây là một mã định danh gắn với từng diện tích rừng trồng, phục vụ yêu cầu quản lý và truy xuất nguồn gốc lâm sản.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị: 'Cơ quan quản lý phải chuyển từ quản lý sang phục vụ, kiến tạo phát triển'. Ảnh: Bảo Thắng.
Theo tổ soạn thảo, mã số được thiết kế như “chìa khóa” để kết nối dữ liệu rừng trồng với các khâu quản lý và thị trường. Về bản chất, đây không phải là một giấy phép mới, mà là định danh giúp nhận diện lô rừng theo không gian, thời gian và chủ thể quản lý, tạo đường dẫn dữ liệu cho hoạt động truy xuất nguồn gốc, kiểm soát hợp pháp lâm sản và đáp ứng chuẩn mực minh bạch mà thị trường đang đòi hỏi.
Việc đưa mã số rừng trồng vào khung pháp lý của Thông tư được kỳ vọng sẽ đặt nền cho một hệ thống nhận diện thống nhất, tránh tình trạng phân mảnh tiêu chuẩn giữa các địa phương hoặc các dự án hỗ trợ kỹ thuật khác nhau.
Công cụ minh bạch và kết nối thị trường
Trên cơ sở đó, 2 quan điểm được nêu ra tại phiên họp về mô hình cấp mã. Hoặc cơ quan quản lý thực hiện dựa trên đề nghị mang tính tự nguyện của tổ chức, cá nhân. Hoặc trao quyền cho một tổ chức độc lập với cơ chế giám sát chặt chẽ.
Mỗi lựa chọn kéo theo cấu trúc vận hành khác nhau. Nếu là thủ tục do cơ quan quản lý cấp, ưu thế là thống nhất và trách nhiệm giải trình. Nếu là tổ chức độc lập, ưu thế là linh hoạt, nhưng yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật và cơ chế kiểm soát chất lượng phải đủ mạnh để không làm nảy sinh rủi ro “nhiều thước đo”.
Cục trưởng Trần Quang Bảo cũng nhìn nhận, một mã số rừng trồng - tự thân nó chưa thể tạo ra thay đổi. “Có mã số mà không gắn với quyền lợi thì người dân sẽ không hứng thú. Mặt khác, nếu để nhiều tổ chức tham gia cấp theo các chuẩn khác nhau có thể dẫn đến nguy cơ khó kiểm soát”.
Vì vậy, giai đoạn thí điểm được tổ soạn thảo đề xuất theo hướng để cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp cấp, từ Cục ở cấp Trung ương đến Chi cục địa phương, nhằm bảo đảm chuẩn hóa quy trình, thống nhất dữ liệu, trước khi tính tới các mô hình xã hội hóa.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy các cơ chế vận hành mới là “điểm rơi” của chính sách. Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Trần Lâm Đồng cho biết, Viện đã thí điểm cấp mã số rừng trồng từ năm ngoái tại một số tỉnh phía Bắc. Kết quả ban đầu phản ánh một thực tế đáng chú ý, không hẳn chủ rừng là nhóm mặn mà nhất với mã số, động lực lại xuất hiện rõ hơn từ phía doanh nghiệp chế biến gỗ - những người cần chứng từ truy xuất để giao dịch.
Ông Đồng cũng thẳng thắn nhìn nhận, nếu triển khai cấp mã số bằng giấy, chủ rừng vùng sâu, vùng xa sẽ gặp rào cản tiếp cận. Việc cập nhật, đối soát thông tin dễ vướng độ trễ và sai lệch.

Cán bộ Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam khảo sát rừng trồng tại mô hình thí điểm cấp mã. Ảnh: Bảo Thắng.
Trong 5 tỉnh tham gia thí điểm của Viện Khoa học Lâm nghiệp hồi 2024, duy nhất tỉnh Yên Bái (cũ) hoàn tất bước ký kết theo mô hình thí điểm. Các địa phương còn lại đều băn khoăn về tính pháp lý và cách kết nối mã số với các thủ tục hiện hành.
Bởi vậy, ông Đồng khuyến nghị, cần nhìn mã số rừng trồng đúng với vai trò công cụ hỗ trợ tiếp cận thị trường. Còn khung pháp lý giao dịch, truy xuất nguồn gốc gỗ, lâm sản đã có nền tảng từ Thông tư số 26/2022/TT-BNNPTNT. Do đó, mã số rừng trồng nên được thiết kế để “nối dài” tính minh bạch, thay vì chồng thêm thủ tục.
Từ thực tế trên, yêu cầu đặt ra là một quy trình gọn, điểm đến rõ ràng về quyền lợi. Với người trồng rừng, mã số phải quy đổi được thành giá trị gia tăng hữu hình như, điều kiện để bán cho nhà máy lớn, thời gian kiểm tra nhanh hơn, cơ hội tham gia chuỗi cung ứng có chuẩn truy xuất.
Với doanh nghiệp, mã số cần tạo mặt bằng dữ liệu thống nhất để kiểm đếm, hợp thức hóa nguồn gốc lâm sản, thay cho việc thu gom giấy tờ phân tán. Còn với cơ quan quản lý, mã số là hạt nhân để xây dựng cơ sở dữ liệu rừng trồng, hỗ trợ theo dõi diễn biến, kết nối với kiểm tra hiện trường, từ đó giảm chồng chéo khi thanh tra, kiểm tra.
Từ thí điểm đến triển khai: Bảo đảm quyền lợi chủ rừng
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm thống nhất với tổ soạn thảo Thông tư, nghiêng về phương án thí điểm do cơ quan quản lý cấp, vừa làm vừa hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm tính nhất quán ở cấp quốc gia trước khi mở rộng phạm vi cấp và đối tượng tham gia.
Ở bước này, bài học rút ra từ thí điểm của Viện là tránh “giấy hóa” quy trình. Cấp trên giấy khiến chủ rừng đi lại nhiều, dữ liệu khó cập nhật. Còn cấp theo cơ chế điện tử sẽ giúp kết nối ngay với hệ thống truy xuất lâm sản và các thủ tục liên quan về vận chuyển, mua bán, thanh tra chuyên ngành.
Tinh thần này cũng phù hợp hướng đi chung của dự thảo Thông tư, vốn nhấn mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động quản lý lâm nghiệp, từ giống đến kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng.

Việc cấp mã số rừng trồng sẽ góp phần hiện đại hóa ngành lâm nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.
Tổng hợp các ý kiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị nêu rõ định hướng, cơ quan quản lý phải chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ, kiến tạo phát triển”. Do đó, trước mắt, việc cấp mã số rừng trồng giao cho Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh tổ chức thực hiện, bảo đảm một đầu mối chịu trách nhiệm.
Về lâu dài, khi quy trình vận hành trơn tru, dữ liệu được chuẩn hóa, có thể phân cấp sâu hơn xuống cấp xã hoặc hạt kiểm lâm, đưa dịch vụ đến gần người trồng rừng.
Thứ trưởng đồng thời yêu cầu đẩy nhanh thủ tục liên quan để chính sách đi vào cuộc sống, nhấn mạnh đây là cơ chế tự nguyện của chủ rừng, nên thiết kế phải thiết thực, hiệu quả. Rừng có mã số sẽ tăng giá trị bán hàng cho chủ rừng, đồng thời minh bạch nguồn gốc gỗ rừng trồng, bảo đảm truy xuất theo yêu cầu của thị trường.
Với nền tảng pháp lý đang được xây dựng, mã số rừng trồng được kỳ vọng trở thành điểm kết nối dữ liệu giữa hộ trồng rừng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, cũng là "đường ray" để các quy trình truy xuất, kiểm soát hợp pháp lâm sản vận hành gọn hơn.
Kinh nghiệm từ mô hình thí điểm cho thấy động lực thị trường là có thật, nhất là ở khâu chế biến. Phần còn lại là thiết kế thể chế đủ tinh gọn, định nghĩa rõ quyền lợi của người trồng rừng và xác lập chuẩn kỹ thuật cho hệ thống nhận diện.
Nếu được đặt đúng bệ phóng, mã số rừng trồng sẽ từng bước trở thành giá trị nhận diện của cả chuỗi giá trị, từ rừng trồng, truy xuất gỗ hợp pháp đến thị trường tiêu thụ.
Trong dự thảo Thông tư, “mã số rừng trồng” được định nghĩa là mã định danh cho một diện tích rừng trồng nhằm mục đích quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản. Nội dung cấp mã số rừng trồng được đưa vào phạm vi điều chỉnh cùng với các nhóm quy định khác của ngành lâm nghiệp như quản lý giống cây trồng lâm nghiệp, thanh lý rừng trồng, trồng rừng thay thế...