Hội thảo “Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón" do Hiệp hội Phân bón Việt Nam phối hợp Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Hội Sản xuất kinh doanh Thuốc Bảo vệ thực vật Việt Nam, Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam tổ chức là cơ hội để các chuyên gia và doanh nghiệp thảo luận và đưa ra đề xuất nhằm giải quyết những bất cập, hạn chế còn tồn tại của Luật Trồng trọt.

Ông Phùng Hà, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng, Luật Trồng trọt cần có những thay đổi phù hợp với chính quyền hai cấp và công cuộc chuyển đổi số của quốc gia. Ảnh: Minh Hà.
Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam Phùng Hà cho biết, Luật Trồng trọt được Quốc hội thông qua năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2020, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý trong lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là quản lý phân bón.
Luật quy định phân bón là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu doanh nghiệp phải có Quyết định công nhận lưu hành và áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN).
Tuy nhiên, sau hơn 5 năm triển khai, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng, Luật đã bộc lộ những hạn chế cần được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo quốc gia đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Thủ tục hành chính trùng lặp, người nông dân phải gánh chịu toàn bộ chi phí
“Doanh nghiệp phải chờ tới 3 tháng để được xét cấp Quyết định công nhận phân bón lưu hành, với thời hạn hiệu lực chỉ 5 năm. Mọi chi phí liên quan đến thủ tục hành chính này đều được cộng vào giá thành, khiến người nông dân phải gánh chịu,” ông Ngọc nhấn mạnh.
Ông lưu ý thêm, quy định này chỉ gây tốn kém mà không hiệu quả, trong khi phân bón giả và kém chất lượng vẫn tràn lan.

Theo ông Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, thủ tục công nhận phân bón lưu hành đang gây khó khăn lớn về thời gian và kinh phí cho doanh nghiệp. Ảnh: Minh Hà.
Từ đó, ông Ngọc kiến nghị loại bỏ Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam khỏi Luật Trồng trọt và các Nghị định liên quan. Thay vào đó, chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện sản xuất, kinh doanh và tuân thủ các quy định của QCVN là có thể được phép buôn bán. Đặc biệt, đối với các loại phân bón chứa chất đa, trung và vi lượng, cần xem xét bỏ hoàn toàn thủ tục đăng ký công nhận.
Cùng với đó, ông cũng chỉ ra sự bất cập của việc công bố hợp quy. "Việc công bố hợp quy hiện nay mang tính hình thức, trùng lặp và không có ý nghĩa trong thực tế quản lý," ông Ngọc cho biết.
Ông Ngọc kiến nghị không nên áp dụng hình thức này trong các quy định hiện hành và dự thảo sửa đổi Luật liên quan, bởi nó chỉ làm tăng chi phí, cản trở xuất nhập khẩu và dễ phát sinh tiêu cực.
Đặt vấn đề về hiệu quả của việc chứng nhận chất lượng, ông Hoàng Văn Tại, thành viên Hiệp hội Phân bón Việt Nam bày tỏ lo ngại: “Tại sao nhiều sản phẩm đã được công nhận hợp quy rồi mà khi kiểm tra vẫn không đạt chất lượng? Giấy chứng nhận hợp quy có giá trị trong 3 năm nhưng chỉ dựa trên mẫu sản phẩm tại một thời điểm. Liệu sản phẩm có luôn đạt chuẩn trong suốt thời gian đó?” Ông Tại cho rằng, nếu vẫn cần phải kiểm tra thường xuyên, thì ý nghĩa của giấy chứng nhận hợp quy là gì?

Ông Trương Hợp Tác, chuyên gia trong lĩnh vực phân bón nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc xây dựng Đề án Phát triển phân bón cho các giai đoạn tiếp theo. Ảnh: Minh Hà.
Mặc dù Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển phân bón cho giai đoạn 2010-2020, nhưng cho đến nay, chưa có cơ quan nào thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất cho giai đoạn 2020-2030 và tương lai và theo ông Trương Hợp Tác, điều này khiến ngành phân bón Việt Nam phát triển thiếu định hướng, không nắm rõ hiện trạng và không có chiến lược phát triển rõ ràng trong tương lai.
Mức thuế suất 0% giúp đẩy mạnh xuất khẩu phân bón
Về chính sách thuế, các doanh nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Ông Đỗ Đức Hùng, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Vật tư nông sản (Apromaco) cho biết, mức thuế xuất khẩu 5% đối với phân supe lân (theo Nghị định 26/2023/NĐ-CP) là không hợp lý.
Chi phí nguyên liệu và năng lượng để sản xuất supe lân chỉ chiếm khoảng 35-40% giá thành, thấp hơn ngưỡng 51% của quy định trước đây, vốn cho phép hưởng thuế suất 0%. Ông Hùng kiến nghị, Chính phủ xem xét sửa đổi Nghị định này để mức thuế xuất khẩu là 0%, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu.
Cùng quan điểm, đại diện Tổng Công ty Phân bón và Hoá chất Dầu khí (Phú Mỹ; PVFCCo) cũng kiến nghị điều chỉnh mức thuế xuất khẩu urê từ 5% về 0%. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động ổn định, tận dụng công suất nhà máy, tăng sức cạnh tranh và đóng góp ngoại tệ cho nền kinh tế.

Đại diện các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phân bón kiến nghị đưa mức thuế xuất khẩu 0% đối với mặt hàng này. Ảnh: DPM.
Đặt ra những nghi vấn về 2 văn bản liên quan đến lĩnh vực quản lý phân bón là Luật Trồng trọt và Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng phân bón, ông Hoàng Văn Tại bày tỏ lo ngại: “Tại sao thời gian qua có rất nhiều sản phẩm đã được công nhận hợp quy rồi mà kiểm tra vẫn không đạt chất lượng? Như vậy việc chứng nhận hợp quy có tác dụng gì không?
Theo GS. Nguyễn Văn Bộ, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, quy định càng hẹp càng dễ quản lý và dễ dàng sửa đổi khi hoàn cảnh thực tế có biến động.
“Trong khi thực tế 5 năm qua cho thấy, Luật Trồng trọt đang ràng buộc doanh nghiệp lĩnh vực phân bón, khiến họ bị mất đi nhiều cơ hội phát triển, đặc biệt phân bón phải cập nhật rất nhanh.”, ông Bộ nhấn mạnh.