Áp lực ngân sách và nghịch lý chi phí – thu
Ở nhiều địa phương, giá bán nước sinh hoạt nông thôn hiện nay vẫn thấp hơn đáng kể so với chi phí thực tế. Các đơn vị cấp nước phải tự cân đối thu – chi, trong khi doanh thu thường không đủ bù đắp chi phí vận hành, bảo trì, khấu hao và nhân công.
Bảo dưỡng, vệ sinh hệ thống trạm bơm cấp nước tại một công trình cung cấp nước liên xã của tỉnh Phú Thọ. Ảnh: Trung Du.
Theo khung giá mới được Bộ Tài chính quy định, giá nước sạch sinh hoạt tại khu vực nông thôn, khung giá được quy định từ 2.000 – 11.000 đồng/m3. Tuy nhiên, ở vùng nông thôn, nhiều nơi vẫn duy trì mức thu chỉ 4.000–5.000 đồng/m³, thấp hơn 30–40% so với chi phí thực tế. Hệ quả là nhiều công trình cấp nước sau khi đầu tư bằng vốn nhà nước nhanh chóng xuống cấp, không có nguồn duy tu, bảo dưỡng. Một số nơi buộc phải “cắt nước luân phiên” hoặc thu hẹp phạm vi cung cấp.
Đáng chú ý, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng 18.109 công trình cấp nước nông thôn, trong đó 4,1% công trình hoạt động trên 22 năm; 17,2% công trình hoạt động từ 17-22 năm; 27,5% công trình đã khai thác được 12-16 năm; các công trình khai thác dưới 11 năm chiếm 19,4%; công trình không xác định thời gian sử dụng chiếm 31,8%.
“Không có cơ chế bù giá phù hợp, hệ thống cấp nước sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn: đầu tư nhiều – hoạt động kém – người dân bỏ dùng – công trình bỏ hoang,” đại diện Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN-MT) nhận định.
Hai yếu tố khiến chi phí cấp nước ở nông thôn cao hơn đô thị là thất thoát nước và biến động nguồn nước. Theo Hiệp hội Cấp thoát nước Việt Nam, mức thất thoát trung bình ở khu vực nông thôn khoảng 20–25%, cao hơn gấp đôi so với đô thị. Nước bị rò rỉ qua đường ống, đồng hồ hư hỏng, thất thu do quản lý thủ công… khiến phần sản lượng xử lý không tạo ra doanh thu. Giảm thất thoát đòi hỏi đầu tư vào hạ tầng hiện đại từ đồng hồ thông minh, kiểm soát áp lực, đến hệ thống quản lý dữ liệu.
Khu vực xử lý nước sinh hoạt tại một nhà máy nước ở Nha Trang. Ảnh: Kim Sơ.
Nhưng với mức giá hiện hành, các đơn vị cấp nước gần như không có khả năng trích lập quỹ đầu tư. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu đang khiến nhiều vùng nông thôn đối mặt nguy cơ thiếu nước sạch nghiêm trọng. Mùa khô năm 2024, Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 100.000 hộ dân bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn, nhiều trạm cấp nước buộc phải mua nước ngọt từ xa hoặc vận hành hệ thống xử lý tạm thời, chi phí tăng 20–40%.Nếu không có cơ chế linh hoạt để bù giá trong các tình huống thiên tai, hệ thống cấp nước nông thôn sẽ rất dễ đứt gãy. Do đó, bù giá không chỉ là hỗ trợ thường xuyên mà còn là công cụ ổn định an sinh trong khủng hoảng môi trường.
Nguyên tắc thiết kế bù giá linh hoạt
Bù giá nước sinh hoạt nông thôn không chỉ là việc chi tiền, mà là một chính sách xã hội có điều kiện. Cơ chế hiệu quả cần đảm bảo ba yếu tố cốt lõi: mục tiêu đúng, điều kiện rõ và giám sát minh bạch.
Thứ nhất, xác định đúng đối tượng được bù giá. Hỗ trợ nên tập trung cho hộ nghèo, cận nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn hoặc bị xâm nhập mặn. Việc trợ giá theo đối tượng, thay vì “bình quân toàn dân”, giúp tránh lãng phí và đảm bảo công bằng.
Thứ hai, gắn trợ cấp với điều kiện vận hành. Các đơn vị cấp nước chỉ được nhận bù giá khi đáp ứng tiêu chí về chất lượng nước, giảm tỷ lệ thất thoát và công khai tài chính. Đây là cách tạo động lực quản trị tốt, tránh tình trạng “bao cấp vô điều kiện”.
Thứ ba, tăng tính minh bạch. Các khoản cấp bù cần được công khai định kỳ, có kiểm toán độc lập, báo cáo kết quả trước Hội đồng nhân dân tỉnh hoặc cơ quan chủ quản. Người dân là đối tượng thụ hưởng cuối cùng nên phải có quyền giám sát và phản hồi về dịch vụ nước sạch.
Theo định hướng của Bộ Tài chính, các địa phương có thể thành lập quỹ bù giá nước sạch cấp tỉnh, sử dụng ngân sách kết hợp nhiều nguồn khác: vốn trung ương hỗ trợ thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; vốn ODA và hỗ trợ kỹ thuật từ Ngân hàng Thế giới, UNICEF; và nguồn xã hội hóa từ doanh nghiệp khi tham gia mô hình hợp tác công – tư (PPP).
Quỹ này hoạt động theo nguyên tắc dự án – nghĩa là phân bổ theo kế hoạch, tiêu chí rõ ràng, và chịu kiểm toán độc lập. Mô hình này đã được một số tỉnh như Bến Tre, Sóc Trăng và Lâm Đồng thử nghiệm trong hỗ trợ cấp nước vùng hạn, mặn, đạt hiệu quả tốt.
Kiểm tra bể chứa nước sinh hoạt tại thôn Ma Nòn (xã Thượng Quan-Thái Nguyên). Ảnh: Ngọc Tú.
Bên cạnh đó, có thể áp dụng cơ chế giá lũy tiến hai bậc: mức tiêu dùng cơ bản (ví dụ 10m³/tháng) được trợ giá nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho hộ dân; phần tiêu dùng vượt mức hoặc khách hàng thương mại trả giá đầy đủ. Cách tính này vừa bảo vệ người nghèo, vừa giữ tín hiệu giá đúng để hạn chế lãng phí và giảm áp lực lên ngân sách.
Tránh “bao cấp vĩnh viễn” hướng đến bền vững
Bù giá chỉ nên là giải pháp “kích hoạt” để hệ thống vận hành trơn tru, chứ không phải “bầu sữa” nuôi mãi. Nếu thực hiện thiếu giám sát hoặc không gắn với cải thiện hiệu quả, rủi ro sẽ là phụ thuộc vào trợ cấp, thất thoát ngân sách và không khuyến khích đổi mới công nghệ.
Do đó, cùng với cấp bù, Nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã nước sạch đầu tư nâng cấp hạ tầng, giảm thất thoát, mở rộng mạng lưới dịch vụ. Khi chi phí giảm, cơ chế bù giá có thể thu hẹp dần, tiến tới cân bằng tự nhiên.
Theo định hướng đến năm 2030 của Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn, mục tiêu là 65% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn quốc gia. Để đạt được, ngân sách nhà nước phải vừa là “vốn mồi”, vừa là công cụ điều tiết thông minh, đảm bảo nước sạch thực sự đến với mọi người dân, không ai bị bỏ lại phía sau.
Bài toán ngân sách và cơ chế bù giá linh hoạt không đơn thuần là chuyện tiền bạc. Đó là bài toán công bằng giữa quyền được dùng nước sạch của người dân với trách nhiệm vận hành hiệu quả của nhà cung cấp. Khi được thiết kế đúng, cơ chế bù giá sẽ không còn là “bao cấp” mà là đòn bẩy phát triển, giúp nước sạch chảy bền vững về từng thôn, bản.





!['Quốc bảo' sâm Lai Châu: [Bài 5] Người La Hủ đầu tiên nhân giống sâm ở Sín Chải](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/27/4416-ha-dung-135717_821.jpg)
![Bản lĩnh nông dân đồng bào thiểu số: [Bài 2] Những cựu chiến binh tỏa sáng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/phuclapdientu/2025/11/26/3810-anh_1_20240618223306-nongnghiep-153800.jpg)








![Bản lĩnh nông dân đồng bào thiểu số: [Bài 2] Những cựu chiến binh tỏa sáng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/phuclapdientu/2025/11/26/3810-anh_1_20240618223306-nongnghiep-153800.jpg)