Xuất khẩu rau quả: Từ cú 'hãm phanh' đầu năm 2025 tới đường băng 2026

Kết thúc tháng 11/2025, Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VinaFruit) công bố kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Với tốc độ hiện tại, ngành đang trên đường chạm mốc 8,5 tỷ USD trong cả năm - một kỷ lục mới, nếu không xảy ra biến động lớn ở khâu xuất khẩu.

Sức bật này đến từ nhóm trái cây chủ lực: sầu riêng, chuối, xoài, mít, dừa, bưởi. Trong đó, “ngôi sao” tiếp tục là sầu riêng. Theo VinaFruit, sầu riêng vẫn dẫn đầu giá trị xuất khẩu, đóng góp lớn nhất vào tổng kim ngạch năm 2025. Bên cạnh rau quả tươi, mảng chế biến và bảo quản cũng có dấu hiệu khởi sắc. Từ đóng hộp, sấy khô, chế biến sơ… những đóng góp này ngày càng lớn, góp phần đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, giảm áp lực chỉ phụ thuộc vào trái cây tươi.

Về thị trường xuất khẩu, dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm hơn 60% tổng kim ngạch. Các thị trường khác như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia… cũng tăng trưởng về giá trị xuất khẩu, giúp doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa đầu ra, giảm lệ thuộc vào một thị trường duy nhất.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường, VinaFruit và nhiều doanh nghiệp trong ngành đều nhìn nhận 2025 là một năm “bứt phá” với ngành hàng rau quả. Sự phục hồi không đơn giản chỉ nhờ sản lượng, mà xuất phát từ quá trình chuẩn hóa vùng trồng, đóng gói, bảo quản hậu thu hoạch, nhằm đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, an toàn thực phẩm ngày càng cao từ thị trường nhập khẩu. Theo VinaFruit, nếu ngành giữ được kim ngạch xuất khẩu trong tháng cuối năm, việc cán đích 8,5 tỷ USD hoàn toàn khả thi.

Ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng Thư ký Vinafruit, đánh giá cao sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhất là trong những giai đoạn cao điểm của xuất khẩu trái cây. Nhờ những nỗ lực này, cộng thêm sự chung tay của hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, xuất khẩu rau quả liên tục tăng trưởng ở nửa cuối năm 2025, đồng thời có năm thứ 3 liên tiếp lập kỷ lục.

Xuất khẩu rau quả liên tục tăng tốc trong 3 năm gần đây. Năm 2022, kim ngạch đạt khoảng 3,34 tỷ USD. Sang năm 2023, con số này tăng vọt lên 5,6 tỷ USD, chủ yếu nhờ sầu riêng xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc.

Năm 2024, rau quả tiếp tục bứt phá, về đích khoảng 7,2 tỷ USD, tăng hơn 27% và lần đầu tiên vượt ngưỡng 7 tỷ USD. Bước sang 2025, sau 11 tháng, kim ngạch đã đạt hơn 7,8 tỷ USD.

Tuy nhiên, kết quả này không phải là sự tăng trưởng “theo quán tính”. Ngành rau quả đã trải qua nhiều áp lực kỹ thuật từ đầu năm, yêu cầu mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng, an toàn thực phẩm từ thị trường nhập khẩu.

Nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh quy trình sơ chế, đóng gói, lưu kho để đáp ứng tiêu chuẩn mới. Có lẽ chính việc “chuẩn hóa” này đã giúp hàng loạt lô xuất khẩu vượt được “rào cản kỹ thuật”, mở đường cho đà tăng trở lại

Những số liệu từ Cục Hải quan củng cố quan điểm này. Nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đến hết 31/10, nhóm quả và quả hạch vẫn là trụ cột tuyệt đối. Giá trị xuất khẩu đạt 5,18 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ, chiếm 73,41% tổng kim ngạch, dù tỷ trọng này đã giảm nhẹ so với 76,94% của năm 2024.

Riêng tháng 10/2025, xuất khẩu quả và quả hạch đạt 729,26 triệu USD, giảm 35,2% so với tháng 9 nhưng vẫn gần như gấp đôi so với tháng 10/2024. Điều này cho thấy mức độ biến động theo mùa vụ rất lớn, song xu hướng chung của cả năm vẫn là đi lên.

Trong nhóm này, sầu riêng tiếp tục là “cột sống” của toàn ngành. Trong tháng 10, mặt hàng này mang về 572,64 triệu USD, chiếm phần áp đảo trong cơ cấu quả tươi dù giảm 41,1% so với tháng 9. Tính lũy kế 10 tháng, sầu riêng đạt 3,34 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ và một mình chiếm 47,28% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước. Con số này cho thấy mức độ tập trung rất cao vào một mặt hàng chủ lực.

Ở nhóm cây ăn quả khác, bức tranh phân hóa khá rõ. Thanh long trong tháng 10 đạt khoảng 36,9 triệu USD, giảm 17,1% so với tháng 9 và giảm 16,4% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 10 tháng, thanh long xuất khẩu được 434,17 triệu USD, gần như đi ngang so với cùng kỳ, chiếm 6,15% tổng kim ngạch. Chuối có diễn biến tích cực hơn: tháng 10 đạt 31,11 triệu USD, tăng 25,9% so với tháng 9, lũy kế 10 tháng đạt 335,95 triệu USD, tăng 10,1%, tỷ trọng 4,76%. Xoài mang về 240,79 triệu USD sau 10 tháng, tăng 14%, góp 3,41% vào tổng kim ngạch.

Một số loại trái cây đang giảm tốc rõ rệt. Mít 10 tháng đạt 148,41 triệu USD, giảm 25,1% so với cùng kỳ và chỉ chiếm 2,10% cơ cấu. Nhãn đạt 48,04 triệu USD, giảm 13,1%; một phần do tính mùa vụ, phần khác cho thấy cạnh tranh và yêu cầu kỹ thuật ngày càng khắt khe với các loại trái cây truyền thống. Ngược lại, có những mặt hàng tăng trưởng rất mạnh dù quy mô còn nhỏ. Hạt dẻ cười đạt 76,42 triệu USD, tăng tới 163,6%; vải đạt 73,28 triệu USD, tăng 310,7% so với cùng kỳ. Hai dòng sản phẩm này mới chỉ chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch mỗi loại, nhưng tốc độ tăng cho thấy dư địa mở rộng nếu duy trì được tiêu chuẩn chất lượng.

Nhóm sản phẩm chế biến là điểm nhấn đáng chú khác trong bức tranh xuất khẩu. Tháng 10/2025, rau quả chế biến đạt 163,87 triệu USD, tăng 9% so với tháng 9 và tăng 29,1% so với tháng 10/2024. Lũy kế 10 tháng, kim ngạch đạt 1,50 tỷ USD, tăng 37,5% so với cùng kỳ; tỷ trọng trong tổng kim ngạch tăng từ 17,72% (năm 2024) lên 21,27%. Điều này cho thấy phần “giá trị gia tăng” trong chuỗi rau quả Việt Nam đang lớn dần, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào xuất khẩu tươi.

Trong nhóm chế biến, dứa dẫn đầu với 292,06 triệu USD sau 10 tháng, tăng 55,8%, chiếm 4,14% tổng kim ngạch. Chanh leo chế biến đạt 150,60 triệu USD (tăng 35,3%), hạt dẻ cười chế biến 147,29 triệu USD (tăng 32,3%), hạnh nhân chế biến 129,88 triệu USD (tăng 87,1%). Xoài chế biến đạt 109,77 triệu USD, tăng 13,3%. Ngược chiều là hạt mè, chỉ đạt 37,11 triệu USD, giảm 25,7%, cho thấy không phải mọi dòng sản phẩm chế biến đều hưởng lợi như nhau. Những mặt hàng gắn với phân khúc tiêu dùng cao cấp và thị trường ổn định đang bứt lên nhanh hơn.

Nhóm rau củ tươi có quy mô nhỏ hơn nhưng vẫn tăng trưởng. Tháng 10, kim ngạch đạt 32,16 triệu USD, giảm nhẹ 4,5% so với tháng trước nhưng cao hơn 41,5% so với tháng 10/2024. Lũy kế 10 tháng, rau củ đạt 351,88 triệu USD, tăng 14,3%, chiếm 4,99% tổng kim ngạch, gần tương đương tỷ trọng năm trước (5%), tức là tăng trưởng của rau củ tương đối đồng đều với toàn ngành.

Trong nhóm này, ớt là mặt hàng lớn nhất với 95,24 triệu USD sau 10 tháng (tăng 21,2%). Khoai lang đạt 29,99 triệu USD (tăng 1,9%), gừng 26,88 triệu USD (tăng 34,7%), ngô 19,63 triệu USD (tăng 16,1%). Tỏi là trường hợp đáng chú ý, kim ngạch 10 tháng 19,39 triệu USD nhưng tăng tới 101% so với cùng kỳ, dù tỷ trọng còn rất nhỏ (0,27%). Một số mặt hàng giảm như súp lơ (15,85 triệu USD, giảm 9,3%) và cải thảo (13,29 triệu USD, giảm 4,5%), cho thấy sự điều chỉnh cung - cầu và cạnh tranh gay gắt hơn trong phân khúc rau ôn đới.

Đáng chú ý, nhóm hoa và lá, thường bị coi là “ngoại biên” trong cơ cấu nông sản, lại mang về giá trị không hề nhỏ. Hoa cắt cành đạt tổng cộng 79,80 triệu USD sau 10 tháng, tăng 21,3%, chiếm 1,13% kim ngạch xuất khẩu. Riêng hoa cúc đã đạt 67,69 triệu USD (tăng 24%). Nhóm lá chuyên dùng cho chế biến thực phẩm hoặc trang trí đạt 10,69 triệu USD, tăng 17,7%; trong đó lá khoai lang tăng tới 64%, lá nguyệt quế tăng 27,9%. Dù tỷ trọng mới khoảng 0,15%, đây là tín hiệu cho thấy các dòng sản phẩm ngách đang được thị trường quốc tế quan tâm hơn.

Những con số và xu hướng kể trên tạo ra một “bệ đỡ” vững chắc cho ngành rau quả khép lại năm 2025 với kim ngạch chưa từng có. Nhưng bên cạnh kỳ vọng 8,5 tỷ USD, vẫn tồn tại các rủi ro nếu tiêu chuẩn nhập khẩu thay đổi thêm, nếu thời tiết ảnh hưởng đến sản lượng, hoặc nếu chuỗi cung ứng, từ vườn trồng tới kho lạnh, chưa thực sự bền vững.

Những “rủi ro” như vậy đã hiển hiện vào đầu năm 2025. Thời điểm ấy, con số hơn 7,8 tỷ USD sau 11 tháng và triển vọng 8,5 tỷ USD gần như không nằm trong bất kỳ kịch bản lạc quan nào. Nguyên do bởi từ cuối năm 2024, Trung Quốc yêu cầu 100% lô sầu riêng nhập khẩu phải có giấy kiểm nghiệm Cadimi và vàng O, đồng thời kiểm tra lại tại cửa khẩu trước khi cho thông quan. Những lô hàng không đạt chuẩn bị trả về hoặc buộc tiêu hủy, mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói liên quan bị đình chỉ.

Hệ quả là trong 4 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu sầu riêng chỉ đạt khoảng 183 triệu USD, giảm hơn 60% so với cùng kỳ. Báo cáo và khuyến cáo liên tiếp của các cơ quan chuyên môn, từ Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đến các địa phương như Lâm Đồng, Đắk Lắk, đều nhấn mạnh mức độ rủi ro. Nếu không kiểm soát được tồn dư kim loại nặng và vàng O ngay từ vùng trồng, sầu riêng Việt Nam sẽ hẹp dần đường xuất khẩu, thậm chí đánh mất uy tín tại thị trường đang chiếm trên 90% kim ngạch của ngành hàng này. Triển vọng để sầu riêng tiếp tục dẫn dắt rau quả, góp phần đưa toàn ngành về đích là điều rất ít doanh nghiệp dám đặt cược.

Bước ngoặt xảy đến vào tháng 5/2025, bắt đầu từ việc lần đầu tiên Việt Nam đưa được sầu riêng đông lạnh đi chính ngạch sang Trung Quốc. Ngày 30/5, lô hàng 22 tấn sầu riêng đông lạnh do Công ty TNHH Xuất khẩu và Thương mại Vina M&B thực hiện được thông quan qua cửa khẩu Bắc Luân II, Móng Cái, Quảng Ninh, sau khi đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu về dư lượng, vi sinh và kim loại nặng theo quy định của phía bạn. Dấu mốc này như một lời khẳng định chắc nịch, rằng doanh nghiệp Việt Nam đã đi được hết “con dốc” yêu cầu về vàng O, cadimi và truy xuất vùng trồng, đồng thời mở ra một dòng sản phẩm mới với giá trị mỗi container cao gấp nhiều lần hàng tươi.

 

Trực tiếp tham gia vào sự kiện mang tính lịch sử này, Tổng giám đốc Phan Thị Mến mô tả rất kỹ hành trình một tháng chuẩn bị cho lô hàng đông lạnh đầu tiên: từ việc chọn vùng trồng đã được đánh giá rủi ro môi trường, theo dõi nhật ký canh tác, lấy mẫu kiểm nghiệm độc lập đến đầu tư dây chuyền cấp đông IQF đạt chuẩn quốc tế.

Mỗi múi sầu riêng được đưa qua chuỗi kiểm soát chặt chẽ, từ tách múi, làm lạnh sâu đến giám sát nhiệt độ trong suốt quãng đường gần 2.000 km ra cửa khẩu. Lô hàng thông quan suôn sẻ không chỉ là thành công của một doanh nghiệp, mà là minh chứng trực tiếp rằng sầu riêng Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe nhất của thị trường Trung Quốc với hình thức chế biến sâu. Từ thời điểm đó, sầu riêng đông lạnh bắt đầu được nhìn nhận như một “đường băng” mới, giúp ngành giảm áp lực mùa vụ và phân tán rủi ro so với hàng tươi.

Cùng lúc với lô hàng đông lạnh, phía Trung Quốc tiếp tục thực hiện một bước đi có ý nghĩa quyết định về mặt thể chế. Ngày 21/5, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) chính thức phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam, nâng tổng số lên 1.396 vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói đủ điều kiện xuất khẩu. Gần 1.000 mã số bổ sung không chỉ có ý nghĩa “mở khóa” nguồn cung bị nén lại nhiều tháng, mà còn là sự ghi nhận của cơ quan quản lý Trung Quốc đối với nỗ lực chuẩn hóa vùng trồng, nhà đóng gói, hệ thống ghi chép và truy xuất nguồn gốc phía Việt Nam. Trong bối cảnh chính vụ sầu riêng rơi vào tháng 7, việc được mở rộng thêm gần 1.000 mã số ngay từ tháng 5 giúp doanh nghiệp và các địa phương có đủ dư địa lên kế hoạch thu mua, chế biến, vận chuyển, thay vì thụ động chờ từng lô được chấp thuận như trước.

Trên thực địa, tác động của những thay đổi này thể hiện rất rõ ở những vùng nguyên liệu lớn. Riêng Đắk Lắk hiện có khoảng 45.000 ha sầu riêng, với 269 vùng trồng và 40 cơ sở đóng gói đã được cấp mã số xuất khẩu. Niên vụ 2025, diện tích cho thu hoạch khoảng 26 nghìn ha, sản lượng ước 390 nghìn tấn, trong đó 70-80% phục vụ xuất khẩu, chủ yếu sang Trung Quốc. Khi hệ thống mã số được mở rộng và hàng đông lạnh được thị trường chấp nhận, các vùng nguyên liệu như Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai không còn phụ thuộc hoàn toàn vào “cửa sổ” ngắn của hàng tươi. Một phần sản lượng có thể đưa vào kho lạnh, đi bằng đường đông lạnh với giá trị cao hơn, thời gian xử lý linh hoạt hơn, giảm nguy cơ dồn ứ cục bộ tại kho và cửa khẩu nếu phát sinh trục trặc kiểm nghiệm.

Để tránh rơi vào vòng xoáy phát triển nóng sau giai đoạn “cởi trói” mã số, các địa phương đồng thời siết lại kỷ luật sản xuất. Đắk Lắk đã ban hành Chỉ thị 004/CT-UBND ngày 14/8 về sản xuất, tiêu thụ sầu riêng, yêu cầu kiểm soát chặt diện tích trồng mới, rà soát lại quy hoạch vùng trồng, ưu tiên phát triển sầu riêng trong khung Đề án cây ăn quả chủ lực đến năm 2025, định hướng đến 2030. Ngoài ra, thúc đẩy liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ, chuyển đổi số trong giám sát chất lượng, truy xuất nguồn gốc. Những động thái này cho thấy mở rộng mã số không phải là tín hiệu để chạy theo diện tích, mà là cơ hội để tái cấu trúc sản xuất theo hướng chuẩn hóa.

Từ Trung ương, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nhìn nhận rõ ràng rủi ro nếu khâu kỹ thuật và kiểm nghiệm không theo kịp tốc độ tăng xuất khẩu. Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt cho biết, hiện Việt Nam có 24 phòng kiểm nghiệm được GACC công nhận, với tổng công suất lý thuyết khoảng 3.200 mẫu/ngày, đủ đáp ứng nhu cầu nếu vận hành thông suốt.

Cam kết đồng hành cùng ngành hàng và bà con nông dân, Cục liên tục giám sát và kịp thời tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường xử lý những khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn, vào trung tuần tháng 10 xuất hiện hiện tượng một số phòng tạm ngừng hoạt động do bảo trì, hỏng thiết bị, chờ đánh giá lại, khiến khâu phân tích chỉ tiêu cadimi, vàng O bị dồn ứ. Trước tình hình này, Thứ trưởng Hoàng Trung đã triệu tập cuộc họp khẩn ngày 24/10, yêu cầu các đơn vị “chạy ngày chạy đêm” để xử lý lượng mẫu tồn, đồng thời rà soát năng lực, đảm bảo tính thống nhất giữa kết quả trong nước và phía Trung Quốc.

Những hành động quyết liệt, rốt ráo của Bộ đã hiển hiện rõ tại địa phương. Bà Đặng Thị Thủy, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đắk Lắk thông tin, vụ sầu riêng năm nay của tỉnh cơ bản đã thu hoạch xong từ cuối tháng 10. Giá thu mua tại vườn dao động 60.000-70.000 đồng/kg, thấp hơn đôi chút so với năm trước nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận cho nông dân. Những vướng mắc trong kiểm nghiệm chủ yếu làm chậm tiến độ một số lô hàng, nhưng sau chỉ đạo quyết liệt của Bộ, các phòng kiểm nghiệm đã tăng tốc, trả kết quả kịp thời, giúp doanh nghiệp tiêu thụ hết sản lượng cuối vụ, giữ ổn định thị trường.

Nhìn tổng thể, tháng 5 đánh dấu thời điểm “hạ phanh, vào ga” của ngành sầu riêng và kéo theo cả rau quả. Lô hàng đông lạnh đầu tiên đi thành công khẳng định năng lực đáp ứng tiêu chuẩn cao nhất, trong khi gần 1.000 mã số mới được duyệt mở rộng đáng kể năng lực xuất khẩu chính ngạch. Để rồi bước sang tháng 7, sau khi các quy định kỹ thuật được làm rõ và năng lực kiểm nghiệm trong nước được củng cố, kim ngạch từng tháng bắt đầu nhích lên, kéo theo cả quý III/2025 ghi nhận mức bứt phá 1,94 tỷ USD, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 9, xuất khẩu sầu riêng lũy kế đạt khoảng 2,76 tỷ USD. Riêng tháng 9, phía Trung Quốc chi gần 1 tỷ USD nhập sầu riêng Việt Nam, chiếm hơn 93% tổng kim ngạch mặt hàng này trong tháng, cho thấy tín hiệu thị trường phục hồi rất mạnh sau giai đoạn siết kiểm soát. Đến tháng 10, khi xuất khẩu rau quả toàn ngành đạt 7,09 tỷ USD, sầu riêng đã vượt lại mốc 3,2 tỷ USD - cao hơn cả kỷ lục của năm 2024, và tiếp tục giữ vai trò đầu tàu về giá trị trong cơ cấu rau quả.

Đến giờ, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VinaFruit) vẫn nuối tiếc. Ông bảo, giá mà đầu năm 2025 không gặp phải cú hẫng xuất khẩu, thu hoạch của toàn ngành đã có thể rực rỡ hơn, thậm chí đạt mức 9 tỷ USD.

Dù vậy, kết quả năm vừa qua có thể xem là điểm xuất phát cho giai đoạn phát triển mới. VinaFruit đánh giá, năm 2026 còn nhiều dư địa tăng trưởng, thậm chí có thể tiến gần mốc 10 tỷ USD, đặc biệt nếu Việt Nam mở rộng thêm thị trường thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) với khu vực Halal - nơi nhu cầu trái cây nhiệt đới tăng nhanh. Các mặt hàng được xem là “ẩn số tăng trưởng” được ông Nguyên điểm tên, gồm dừa tươi, chuối, xoài, mít đều ghi nhận mức tăng tốt so với năm 2024 và đang dần khẳng định sự ổn định về sản lượng.

Ở góc độ chất lượng - yếu tố luôn được thị trường quốc tế xem là điều kiện tiên quyết, VinaFruit nhấn mạnh rằng thương hiệu nông sản Việt chỉ có thể bền vững khi đáp ứng đầy đủ tiêu chí “xanh - sạch - đẹp - minh bạch”. Điều này bao gồm quản lý tốt dư lượng, tuân thủ quy trình kỹ thuật, bảo đảm truy xuất vùng trồng, bao bì đạt chuẩn và chất lượng sản phẩm đồng đều. “Hàng phải ngon, đẹp và minh bạch thì mới giữ được thị trường”, ông Nguyên chia sẻ. Đây là bài học xuyên suốt trong năm 2025, khi hàng loạt lô sầu riêng đầu năm gặp ách tắc vì sai lệch chỉ tiêu và truy xuất.

Trong số các nhóm hàng có tiềm năng bứt phá thời gian tới, chuối và dứa được kỳ vọng có thể gia nhập nhóm xuất khẩu tỷ USD. Chuối là loại trái cây được tiêu thụ nhiều nhất thế giới và là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng ổn định nhất tại khu vực Đông Bắc Á và Trung Đông. Với Trung Quốc, thị trường nhập khẩu chuối lớn nhất châu Á, hiện có sản lượng nội địa không đủ đáp ứng nhu cầu, buộc phải tăng nhập khẩu từ các nước có nguồn cung ổn định. Trong khi đó, nhiều vùng trồng lớn trên thế giới đang chịu tác động của bệnh héo rũ Panama khiến diện tích giảm, giá tăng và chuỗi cung ứng thiếu ổn định.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam nổi lên như nguồn cung thay thế quan trọng nhờ lợi thế địa lý, sản lượng ổn định, chi phí logistics cạnh tranh và hệ thống mã số vùng trồng, đóng gói được mở rộng mạnh trong năm 2025. Việc các doanh nghiệp đầu tư vào nhà máy xử lý sau thu hoạch, phòng chiếu xạ và kho lạnh giúp chuối Việt Nam nâng đáng kể khả năng đáp ứng yêu cầu về độ chín, màu sắc và thời gian bảo quản - những tiêu chí quan trọng khi thâm nhập sâu vào hệ thống phân phối của Trung Quốc, Hàn Quốc và Trung Đông.

Trái với chuối, dứa tăng trưởng nhờ động lực từ ngành chế biến. Xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang chuyển sang các sản phẩm chế biến sâu như nước ép, đông lạnh, đóng hộp và nguyên liệu cho ngành đồ uống. Trung Quốc tiêu thụ 2,5-3 triệu tấn dứa mỗi năm, nhưng sản lượng nội địa có tính mùa vụ rõ rệt, khiến nhu cầu nhập khẩu tăng đều trong các giai đoạn giao mùa. Ngoài ra, thị trường Trung Đông và châu Âu đang đẩy mạnh nhập khẩu dứa chế biến vì ổn định trong bảo quản và phù hợp với nhu cầu sản xuất thực phẩm.

Việt Nam có lợi thế lớn nhờ vùng nguyên liệu tập trung ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An… sản lượng ổn định, và chi phí chế biến cạnh tranh hơn so với nhiều nước trong khu vực. Năm 2025, dứa là một trong những mặt hàng có tăng trưởng mạnh nhất (trên 55%), cho thấy nhu cầu thị trường còn rất lớn. Với tốc độ mở rộng nhà máy chế biến trong hai năm gần đây, dứa Việt Nam có cơ hội vươn lên nhóm xuất khẩu tỷ đô nếu các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào công nghệ, chuẩn hóa vùng trồng và đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc.

Triển vọng 2026 là tích cực nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về năng lực tuân thủ. Bộ Công Thương nhấn mạnh 3 trụ cột: đa dạng hóa thị trường, nâng cấp năng lực chế biến - logistics và tăng cường kiểm soát chất lượng để không tái diễn tình trạng ách tắc kiểm nghiệm. Các thị trường như EU, Trung Đông, Nam Á và hệ thống Halal đều đòi hỏi minh bạch về truy xuất, đồng nhất về chất lượng và sự ổn định về nguồn cung.

Với sầu riêng, mặt hàng giá trị nhất, cơ hội tăng trưởng năm 2026 không những nằm ở biến động nguồn cung của một số quốc gia như Thái Lan, mà ở chính năng lực chuẩn hóa mà Việt Nam đã xây dựng trong năm vừa qua: hệ thống mã số được củng cố, doanh nghiệp hiểu rõ yêu cầu kỹ thuật, địa phương kiểm soát tốt hơn diện tích và ghi chép sản xuất, năng lực kiểm nghiệm được nâng đáng kể. Nếu giữ được kỷ luật này, sầu riêng tiếp tục là “đầu tàu” kéo cả ngành đi lên.

Năm 2025 khép lại không chỉ bằng một con số kỷ lục cho ngành rau quả, mà còn là sự thay đổi căn bản trong cách ngành rau quả vận hành, trong đó yếu tố thị trường được nhấn mạnh. Thay vì “bán cái chúng ta có”, doanh nghiệp đã định hướng tiếp cận bằng “bán cái thị trường cần”. Chính những điều chỉnh quan trọng này đã tạo ra đường băng cho năm 2026. Xuất khẩu rau quả Việt Nam đang tiến vào giai đoạn mới, nơi giá trị không còn đến từ sự bùng nổ nhất thời của một vài mặt hàng, mà từ chiến lược dài hạn.

Mốc 10 tỷ USD không còn là một mục tiêu táo bạo, mà hoàn toàn có thể trở thành bước tiến tự nhiên của một ngành đang trưởng thành và tự tin hơn trên thị trường toàn cầu.

Bảo Thắng
Trọng Toàn
Bảo Thắng
Phạm Huy - Minh Phúc - Hà Trang

Tin liên quan

Ngành chanh leo cần tiếp tục chuẩn hóa các khâu then chốt

Ngành chanh leo cần tiếp tục chuẩn hóa các khâu then chốt

Thời sự 09:54

Ngành chanh leo cần tiếp tục chuẩn hóa các khâu then chốt; Xuất khẩu rau quả tăng mạnh, vượt kim ngạch cả năm ngoái; Nhiều khó khăn trong sản xuất vụ đông.

Xuất khẩu nông lâm thủy sản tiến gần mục tiêu 70 tỷ USD

Xuất khẩu nông lâm thủy sản tiến gần mục tiêu 70 tỷ USD

Thời sự 09:11

Xuất khẩu nông lâm thủy sản tiến gần mục tiêu 70 tỷ USD; Xuất hiện sâu đo hại rừng bạch đàn; Tập huấn quy trình sản xuất lúa phát thải thấp cho 100 học viên.

Xuất khẩu rau quả có thể đạt 8,5 tỷ USD

Xuất khẩu rau quả có thể đạt 8,5 tỷ USD

Xuất khẩu rau quả tháng 10 tiếp tục đạt kim ngạch rất cao. Với đà tăng trưởng này ngành rau quả sẽ ghi dấu mốc mới 8,5 tỷ USD trong năm 2025.

Xuất khẩu rau quả sắp vượt 8 tỷ USD

Xuất khẩu rau quả sắp vượt 8 tỷ USD

Dự kiến đến hết tháng 10, kim ngạch xuất khẩu rau quả ước đạt hơn 7 tỷ USD, gần bằng kỷ lục của cả năm 2024. Đây là năm thứ 2 liên tiếp rau quả vượt mốc này.

Xem thêm