Nguồn nước, nguồn sống hồ Núi Cốc

Một hồ chứa lặng lẽ gom góp nước, mạch nguồn và ký ức suốt hàng chục năm, là món quà vô giá của đất trời. Nó không chỉ là nơi điều hòa khí hậu, là sinh kế của bao đời người dân ven hồ, mà còn là kho tàng văn hóa trầm tích, nơi từng lớp cư dân lặng lẽ gửi vào đó những câu chuyện của mình.

Con đường từ trung tâm thành phố Thái Nguyên vào hồ như dải lụa mềm vắt hờ qua những triền đồi trung du. Từ tuyến Đán - Tân Cương - Núi Cốc, mặt đường trải nhựa phẳng lỳ, uốn cong theo từng quả đồi phủ xanh. Màu xanh của rừng keo, màu xanh đằm thắm của nương chè Tân Cương, thứ chè nổi tiếng cả nước, đan thành một tấm thảm lấp lánh dưới nắng sớm. Chỉ chừng 15 km thôi, nhưng người ta như rời khỏi cuộc sống hối hả, để thả mình vào miền nguyên sơ, nơi tiếng gió, tiếng chim và mùi lá ướt sương đủ khiến lòng dịu lại.

Tôi đến trang trại của chị Nguyễn Thị Hiền khi sương sớm còn đọng trên từng nhành cỏ. Mặt hồ lúc này bồng bềnh như vừa thức giấc. Núi Cốc mở ra trước mắt tôi như một bức tranh trừu tượng của thiên nhiên: mặt nước mênh mang ánh bạc, phản chiếu bầu trời nhạt màu; những đảo lớn nhỏ trồi lên giữa hồ như chuỗi đá quý mà ai đó đánh rơi xuống mặt đất từ thuở xa xưa. Khi sương nhẹ giăng, hồ giống một nàng tiên khoác tấm voan trắng mỏng. Lúc hoàng hôn đổ xuống, cả mặt hồ sáng lên thứ ánh vàng mềm mại, đẹp đến mức khiến người ta chỉ muốn lặng im mà nhìn ngắm.

Ít ai biết sau vẻ bình yên ấy là câu chuyện của một người phụ nữ chưa bao giờ chịu khuất phục số phận. Nhìn cơ ngơi của chị hôm nay, một trang trại trù phú, cây trái sum suê, hồ nước mở ra trước hiên nhà, khó ai hình dung được những tháng ngày cơ cực chị đã trải qua.

Chị Nguyễn Thị Hiền sinh ra ở xã Huống Thượng, trong một gia đình nghèo, nợ nần đeo bám từ lúc chị còn nhỏ. Bố mẹ chị phải dắt díu nhau lên Hà Giang trốn nợ. Chị Hiền vẫn nhớ ngày bé theo gia đình vào tận km29 chợ Bạc, vùng núi heo hút mà mùa đông gió rít từng hồi qua vách nứa. Đến năm 1990, gia đình mới trở về lại Thái Nguyên, mang theo một hành trang duy nhất: ý chí làm lại từ đầu.

Rót chén nước chè đặc quánh hương Tân Cương, chị kể trong giọng trầm ấm: từ 7 - 8 tuổi chị đã đi làm thuê khắp nơi. Lớn hơn một chút thì vào rừng chặt gỗ, chặt nứa, rồi theo người ta đi buôn gỗ. Nghèo khó khiến chị không bao giờ được phép yếu mềm.

Nhưng buôn gỗ rừng khi ấy đầy rủi ro, có chuyến lời, có chuyến mất trắng. Buôn gỗ một thời gian. Năm 1997, chị mạnh dạn vay tiền mua ba chiếc thuyền làm cát với hy vọng đổi đời. Nhưng dòng nước bạc trắng dưới hồ đôi lúc nghiệt ngã, rủi ro ập đến, chị mất sạch vốn liếng, chới với như người hụt chân giữa xoáy nước.

Không bỏ cuộc, chị lại quay về buôn gỗ. Khi mất thêm lần nữa, chị bán nốt tàu thuyền, thứ tài sản cuối cùng và quyết định “lên bờ” để bắt đầu lại. Lúc đó chị không có gì ngoài hai bàn tay, kinh nghiệm thương trường và một quyết tâm đến mức người thân nhìn vào cũng phải nể.

 

Năm 2012, chị dồn góp từng đồng mua mảnh đất bên hồ Núi Cốc với giá 475 triệu đồng, thời điểm đó là con số không hề nhỏ. Đứng giữa vùng đất hoang sơ, cỏ mọc lút đầu, chị biết mình đang bắt đầu một hành trình mới.

Và điều kỳ diệu nằm ở chỗ: chính từ vùng đất đầy gió và sỏi ấy, chị lại thành công với cây trám, thứ cây mà trước đây từng khiến chị mất trắng. Chị kiên trì gây dựng, mày mò, rồi trở thành người tiên phong biến cây trám thành cây chủ lực của khu vực. Thành quả của chị là minh chứng cho sự kiên cường, bền bỉ, và không bao giờ chịu dừng bước.

Hồ Núi Cốc, với vẻ đẹp mê hoặc của mình, đã chở che và chứng kiến hành trình ấy. Như thể hồ không chỉ dưỡng nước, nuôi cá, điều hòa gió trời, mà còn nuôi dưỡng cả những khát vọng sống bền bỉ của những người dân quanh hồ, những con người chưa bao giờ chịu cúi đầu trước nghịch cảnh.

Có lẽ hiếm nơi nào làm nông nghiệp mà nguồn nước tưới lại “sướng” như ở cao nguyên hồ Núi Cốc. Từ mặt hồ xanh biêng biếc, nước được bơm thẳng lên bể chứa, rồi theo những đường ống phi 42 - 60 chạy dọc triền dốc, len lỏi đến từng gốc trám như những mạch ngầm bền bỉ nuôi dưỡng sự sống.

“Nước thì không bao giờ thiếu. Chỉ cần xuống hồ là có”, chị Hiền nói, bàn tay chỉ về phía những ống nước chạy ngoằn ngoèo dưới tán cây. Nơi đây, nước hồ chính là phép màu, thứ phù du lặng lẽ nhưng không thể thay thế.

Theo chị Hiền men xuống triền dốc, tôi nghe tiếng nước chạy róc rách trong những đường ống như nhịp thở của cả trang trại. “Ở đây, cây không bao giờ khát”, chị nói, rồi chỉ tay về phía mặt hồ Núi Cốc lấp lánh dưới tầng sương mỏng. Toàn bộ nước tưới được bơm trực tiếp từ hồ lên bể chứa lớn, sau đó chảy theo hệ thống ống phi 42 - 60 vươn đến từng khoảng đồi.

Dưới vòm cây còn đẫm hơi sương, hệ thống tưới tự động bắt đầu vận hành. Những tia nước nhỏ, đều và mềm như sương, phủ lên khu vực trám ươm, nơi hàng nghìn bầu cây đang lớn từng ngày. Mỗi giọt nước từ hồ Núi Cốc mang theo nhiều dưỡng chất của cả vùng, thấm vào rễ, đánh thức những mầm xanh bé xíu.

Đi sâu hơn vào khu trám lên bầu, tiếng nước phun xen giữa mùi đất ẩm mang lại cảm giác của một khu vườn đang thở. “Ươm trám mà thiếu nước sạch, ổn định là chết”, chị Hiền nói. “Nhờ hồ ở ngay chân đồi nên cây nào cũng được chăm như nhau, không lo thiếu hụt”. Nước chảy đến đâu, mảng xanh mở rộng đến đó, những hàng cây ngay ngắn đang lớn dần, chuẩn bị cho hành trình phủ xanh những vùng đất mới.

Trên cao nhìn xuống, hệ thống tưới nước của trang trại giống như những mạch máu nuôi từng thửa đất, từng bầu cây. Mặt hồ tĩnh lặng bên dưới là nguồn sống, còn trên những triền đồi rộng mở, những cây trám non đang lớn lên, khỏe khoắn, đồng đều, như được chính thiên nhiên nuôi dưỡng bằng tất cả sự hào phóng của nó.

Xuống gần mép nước, chị Hiền chỉ cho tôi khoảng mặt hồ rộng mênh mang mà chị thuê lại để thả cá. 5 ha hồ trải dài như một tấm gương xanh, nơi từng con sóng nhỏ vỗ lăn tăn vào bờ đồi. “Ở đây nước sạch, sâu, mát, cá hợp lắm”, chị nói, rồi thong thả rảo bước dọc bờ, nơi những đàn cá chép, cá trắm thỉnh thoảng quẫy nhẹ làm mặt nước rung lên như mặt gương bị chạm tay.

Không cần cám công nghiệp, không nuôi nhốt, đàn cá cứ thế lớn lên trong chính vòng tay của thiên nhiên. Mỗi mùa nước lên, rong rêu dồi dào; mỗi đợt hồ đổi nước, nguồn thức ăn tự nhiên lại đầy thêm. Nhờ vậy, cá khoẻ, thịt chắc, thơm, như hấp trọn mùi của gió hồ, của lá rừng, của dòng nước quanh năm trong trẻo.

Chị cười, bảo cá không chỉ góp thêm bữa ăn đủ đầy cho gia đình và công nhân, những người xem trang trại này như nhà, mà còn cho thu nhập vừa đủ để thuê một người bảo vệ trông coi hồ, giữ an toàn cho đàn cá và cả nguồn nước. Một vòng tròn cân bằng được hình thành: thiên nhiên nuôi cá, cá nuôi người, và con người lại giữ gìn thiên nhiên.

Đứng giữa khoảng hồ xanh thẳm, tôi cảm nhận rõ sự hài hòa hiếm thấy của mô hình nông nghiệp này. Ở đây, không có sự tận dụng đến kiệt quệ, không có sự cưỡng ép đất đai hay mặt nước. Chỉ có sự trao, nhận đúng nghĩa: hồ cho nguồn nước và nguồn sống; chị Hiền trả lại bằng sự chăm nom, gìn giữ. Và trong mối tương tác giản dị ấy, cả con người lẫn thiên nhiên đều trở nên phong phú hơn, bền vững hơn.

Sớm tinh mơ, tôi theo chân chị Nguyễn Thị Hiền men theo con đường nhỏ dẫn vào vườn trám, nơi những triền đồi nối nhau chạy dài ôm lấy mặt hồ Núi Cốc. Đứng ở lối vào trang trại, tôi mới hiểu vì sao người ta nói đất ở đây “đẹp đến mức không cần tô vẽ”: một bên là hồ nước yên ả trải đến tận chân trời, một bên là đồi trám thẳng tắp, miên man trong gió.

“Nhà chị tổng cộng 12 ha trồng cây, chủ yếu trám đen với đinh thối, gù hương đỏ”, chị Hiền vừa mở cổng vừa cất giọng mộc mạc đặc trưng của người miền trung du. Thế nhưng câu chuyện bắt đầu lại quá đỗi giản dị. Chị cười, nụ cười trong veo như gió hồ: “Trồng trám là vì… thèm ăn trám. Tôi thích ăn trám lắm!”.

Tôi bật cười theo, nhưng rồi chợt lặng đi khi nghe chị kể: ai ngờ cái sự “thèm ăn” ấy lại mở ra một hành trình dằng dặc, lắm dũng cảm và đong đầy nước mắt. Năm 2012, trong vùng có người bán một cây trám được 20 triệu đồng tiền quả. Chị tò mò: “Cây gì mà quý vậy?”. Rồi gom góp mua đất để trồng. Nhưng khu đất ấy chỉ toàn keo già, đất chai và bạc màu, cỏ mọc cao quá đầu. Trên mảnh đất khô cằn ấy, chị quyết tâm trồng 1.200 cây trám đầu tiên. Và chúng “ngủ im lìm” suốt 12 năm.

Đi giữa đồi trám, chị chỉ cho tôi những thân cây cao 6 - 8 mét nhưng thân trắng bệch, trơ trụi quả: “Đấy, chúng nó không chịu ra quả. Hoặc có thì bé xíu, chát, người ta không mua. Mình chăm cả chục năm mà chẳng được gì… Nghĩ lại vẫn nghẹn”. Lứa trám đầu tiên coi như mất trắng. Nhưng người đàn bà sinh ra và lớn lên giữa núi đồi này không biết đầu hàng.

Từ năm 2013, chị rong ruổi khắp nơi tìm giống trám thực sinh, loại giống chuẩn, chịu đất, cho quả tốt. Chị trồng lại từng chút một, kiên nhẫn gây dựng. Hơn 3.000 cây đầu tiên cuối cùng chỉ còn khoảng 200 cây cho quả. Nhờ những cây thực sinh mới đưa về, năm nay thêm gần 200 cây nữa bắt đầu đơm trái.

Chị đưa tôi sang khu trám đang mùa thu quả. Từng chùm trám đen bóng, lấp loáng trong nắng như những viên đá quý trên nền trời. Mỗi bước chân đi trên đồi như chạm vào chút nỗ lực của 12 năm bền bỉ, của niềm tin không rời.

Trám đen, nếu đúng giống, chỉ 3 đến 5 năm đã cho thu. Cây 10 - 11 năm tuổi, một ha có thể cho thu nhập đến 600 triệu đồng, con số mà nhiều loại cây lâm nghiệp khác chỉ có thể “ước ao”. Năm nay, chị Hiền thu khoảng 10 tấn trám. Với giá 60.000 - 80.000 đồng mỗi kg, chị thu về khoảng 600 triệu đồng.

Nhưng khi hỏi điều gì khiến chị tự hào nhất, chị chỉ mỉm cười rồi lắc đầu: “Không phải tiền đâu. Mà là mình tạo được việc làm cho bà con quanh vùng”.

Chị chia sẻ thêm: “Trám là cây bản địa, không tốn tiền thuốc sâu. Phun thuốc là không đúng đâu! Tôi tưới bằng nước hồ ngày hai lần, không bao giờ thiếu”.

Gió từ mặt hồ thổi lên mát rượi, mang theo mùi đất, mùi lá và cả bình yên dày dặn sau những năm tháng vất vả. Nhìn chị Hiền đứng giữa đồi trám xanh rì, tôi hiểu vì sao người ta gọi chị là “người phụ nữ trồng trám trên lưng hồ”. Bởi chị đâu chỉ trồng cây, chị gieo hy vọng. Và từ những đồi trám này, biết bao cuộc đời đã được đón thêm niềm tin để bước tiếp.

Giữa không gian xanh thẳm của hồ Núi Cốc, trang trại của chị Nguyễn Thị Hiền không chỉ là nơi cây trám bén rễ, mà còn là nơi những phận người yếm thế tìm được chỗ đứng lặng lẽ nhưng vững vàng trong cuộc sống.

Chị Ma Thị Tư ở xã Đại Phúc là một trong số đó. Có con nhỏ, chị không thể đi làm công nhân vì vướng việc đưa đón, chăm sóc. Một mình giữa những bộn bề, cái nghèo cứ như bám riết. Nhưng từ ngày biết đến trang trại trám của chị Hiền, cuộc sống chị dần mở ra lối khác.

“Bình thường em đi đóng bầu cây, quanh năm chỉ có thế thôi”, chị Tư vừa thoăn thoắt xếp từng bầu giống vừa nói. “Làm ở đây không bị phụ thuộc, vẫn trông được con, chủ động đưa đón con đi học. Gần hồ, tưới nước cũng tiện. Mỗi công bình quân 250 nghìn đồng, đủ để lo cho bọn trẻ”.

Giọng chị nhẹ tênh mà như mang cả một sự biết ơn dài rộng. Không chỉ người mẹ trẻ ấy, nhiều phận người khác cũng tìm được sinh kế từ mảnh đất này. Như ông Đào Văn Tiến, xã Đức Lương, người đàn ông lam lũ, nghe tin chị Hiền tạo việc làm cho bà con liền lặn lội tìm đến xin việc.

Công của ông là phát cỏ, đóng bầu cây, những việc vất vả nhưng giản đơn, hợp với người quen núi rừng. Nhà xa, ông ở lại trang trại, mỗi tháng chỉ về thăm vợ con hai lần.

Trong gian bếp, chị Hiền mở sổ tính công: “Anh Tiến 30 công, 9 triệu. Anh Nghệ 38 công mười giờ, hơn 14 triệu”.

Rồi chị dặn với theo: “Về xong cố gắng mười bốn, mười lăm xuống nhé!”. Ông Nghệ vừa nhấp chén trà vừa khen: “Trà ngon thật!”. Câu nói tưởng chừng vu vơ mà nghe thân mật như người trong nhà.

Khi hai người đàn ông chuẩn bị lên xe, chị Hiền còn chạy ra tận cổng, tay xách hai bộ quần áo rét mới cứng. “Gần triệu một bộ đấy, mua cho các bác mặc đầu vụ. Năm nào cũng có”, chị cười. Nụ cười mộc mạc mà sáng bừng giữa triền đồi.

Giữa những đồi trám xanh rì, người phụ nữ ấy không chỉ gieo cây. Chị gieo cả công việc, sự sẻ chia và những bấu víu dịu dàng cho những người yếu thế. Ở nơi mà gió hồ thổi lên từng đợt mát rượi, những phận đời tưởng chừng lạc lõng nay tìm được bến đậu bình yên, ngay dưới bóng những tán trám mà chị Hiền đã dành cả đời để vun trồng.

Hùng Khang - Minh Phúc
Trọng Toàn
Hùng Khang
Hùng Khang

Tin liên quan

Hồ Núi Cốc, điểm đến wellness mới trên bản đồ retreat Châu Á

Hồ Núi Cốc, điểm đến wellness mới trên bản đồ retreat Châu Á

Khi cả thế giới đang tìm kiếm nơi để chữa lành, Hồ Núi Cốc đã âm thầm mở cửa. Và cánh cửa ấy, đang chờ những vị khách đầu tiên của một kỷ nguyên mới.

Hà Nội lệnh báo động lũ trên nhiều sông, nhiều nơi nguy cơ ngập lụt sâu

Hà Nội lệnh báo động lũ trên nhiều sông, nhiều nơi nguy cơ ngập lụt sâu

Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự Hà Nội lệnh báo động lũ trên các sông Cầu, Nhuệ, Bùi, Cà Lồ; yêu cầu triển khai bảo đảm an toàn hạ du hồ Núi Cốc.

Vận hành xả nước hồ Núi Cốc từ trưa ngày 30/9

Vận hành xả nước hồ Núi Cốc từ trưa ngày 30/9

Thái Nguyên Do mưa lớn kéo dài, mực nước hồ dâng cao, từ 12h15 ngày 30/9, Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi Thái Nguyên sẽ bắt đầu xả nước qua tràn hồ Núi Cốc.

Hà Nội lệnh báo động lũ trên nhiều sông, nhiều nơi nguy cơ ngập lụt sâu

Hà Nội lệnh báo động lũ trên nhiều sông, nhiều nơi nguy cơ ngập lụt sâu

Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự Hà Nội lệnh báo động lũ trên các sông Cầu, Nhuệ, Bùi, Cà Lồ; yêu cầu triển khai bảo đảm an toàn hạ du hồ Núi Cốc.

Xem thêm