GS Phan Phải - 'phù thủy Châu Á' về đột biến gene

GS.TSKH Trần Duy Quý, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp kể: Tôi có một kỷ niệm rất đặc biệt với GS.TSKH Phan Phải vào năm 1967, lúc đó anh là Bí thư Khoa Sinh của trường Đại học Tổng hợp. Khi lên giảng đường thấy những sinh viên năm thứ nhất đang học để chuẩn bị thi mà mỗi mình tôi đang ngồi đan rổ anh mới hỏi tại sao em không học? Tôi trả lời rằng thưa thầy, em học xong rồi nên mới đan rổ để bán nộp tiền ăn.

Số là cả lớp đều được học bổng đủ để đóng tiền ăn nhưng do tôi thuộc thành phần con cháu địa chủ nên xã mới ghi là gia đình có điều kiện thành ra trường không cấp học bổng. "Đi học thế này em có nhớ nhà không?", anh hỏi tiếp. Tôi trả lời: "Em có ạ". Thế rồi anh ký giấy công lệnh cho tôi về nhà 1 tuần và cho 10 đồng để mua 1 tạ sắn cứu đói. Biết tôi là sinh viên khoa toán chuyển sang khoa sinh anh khuyên: "Giỏi toán như cậu thì nên đi theo ngành di truyền chọn tạo giống”.

Về sau anh được chọn đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Năm 1972, anh bảo vệ xuất sắc luận án phó tiến sĩ, được Viện Sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô mời ở lại làm cộng tác viên. Năm 1979, anh bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ về tạo giống bằng đột biến gene. Anh là người nhạy bén về di truyền học hiện đại theo trường phái Menden - Morgan dù trước đó được đào tạo theo trường phái Mitsurin - Lưxenco.

Từ đấy anh mở rộng ra các đối tượng cây trồng chủ lực của Việt Nam như lúa, ngô, đậu tương. Trước đó, lúc còn chưa về nước anh đã chọn những sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam học giỏi ở các nước xã hội chủ nghĩa, giới thiệu cho Tổ Di truyền thuộc Viện Sinh học của chúng tôi 4 người là Lê Đình Hùng, Vũ Đức Quang, Nguyễn Ngọc Cường, Nguyễn Minh Trí. Về sau họ đều là những người rất giỏi và say nghề. Anh còn thường xuyên gửi những tài liệu, hóa chất gây đột biến về Việt Nam cho chúng tôi và nhận các mẫu lúa, ngô, đậu tương sang Liên Xô để chiếu xạ.

Tháng 10 năm 1979 anh về nước thành lập Phòng Di truyền (thuộc Viện Sinh học, một viện con của Viện Khoa học Việt Nam) dựa trên nền tảng của Tổ Di truyền. Sau đó là cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu - Chủ tịch Viện Khoa học Việt Nam và GS.TSKH Phan Phải - Trưởng phòng Di truyền.

GS.VS Nguyễn Văn Hiệu chủ trương vật lý phải nghiên cứu về các hạt cơ bản và sinh học phải nghiên cứu về thực vật chí, động vật chí. Anh Phải chủ trương hạt cơ bản là hạt gạo hay nói rộng ra là các loại cây lương thực, cần cải tạo giống để cứu đói cho dân. Cuộc tranh luận không ngã ngũ ấy kéo dài từ năm 1979 đến năm 1984 khiến anh Phải xin sang Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm và được đồng ý.

Ngày 22/5/1984 anh “bốc” cả Phòng Di truyền của chúng tôi gồm 18 người sang thành lập Trung tâm Di truyền Nông nghiệp. Quyết định này do ông Võ Nguyên Giáp lúc đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký. Anh Phải làm Giám đốc Trung tâm cho đến lúc mất năm 1989. Nhờ có anh định hướng nghiên cứu nên Trung tâm đã cho ra đời hàng loạt các giống bằng phương pháp đột biến như lúa NN-2298, DT10, MT4, DB250, DV2…, đậu tương DT84, ngô DT6, bắp cải chịu nhiệt… Đồng thời đơn vị đã xây dựng dự án tăng cường năng lực nghiên cứu, được FAO tài trợ 1,2 triệu USD.

Trung tâm ký hợp tác toàn diện với các viện nghiên cứu của Liên Xô, Bungari, Hungari, Cuba… về chọn tạo giống cây trồng và các chủng vi sinh để làm phân bón, thuốc BVTV. Ngày 14/7/1989, anh đi công tác Cuba, Liên Xô, Bungari để thúc đẩy hợp tác khoa học. Trong chuyến bay từ Cuba về Liên Xô máy bay gặp trục trặc phải hạ cánh khẩn gây ảnh hưởng xấu đến huyết áp của anh. Khi đi xe tải từ Thủ đô Bungari xuống các trạm nghiên cứu cách đó vài trăm cây số trong điều kiện nắng nóng, vất vả đã khiến anh bị đột quỵ, liệt nửa người nhưng vẫn không chịu nghỉ ngơi mà làm việc tiếp.

Anh điện thoại về Việt Nam cho tôi bảo: “Cậu ở nhà tập trung cho anh em nghiên cứu và đảm bảo đời sống cho anh em nhé. Tớ bị tai biến nhưng sắp mổ, chắc nhanh phục hồi rồi về nước thôi”. Lúc đang nói chuyện thì tôi nghe “cộc” một tiếng. Thì ra anh đánh rơi cái điện thoại. Tôi hỏi anh yếu à? Anh trả lời: “Tớ vẫn bình thường”. Linh tính mách bảo tôi rằng tình hình rất xấu. Quả nhiên sau đó anh bị đột quỵ lần thứ hai và mất vào ngày 1/9/1989 mà không kịp trăng trối một lời.

Ngày 9/9/1989, chúng tôi ra sân bay Nội Bài để đón lọ tro cốt của anh Phải. Ai cũng thương xót.

Anh mất đi, di sản để lại là một tủ sách di truyền bằng tiếng Nga, tiếng Anh; là đào tạo được một loạt cán bộ tâm huyết với nghề; là một định hướng nghiên cứu ổn định vẫn duy trì đến hôm nay; là một công trình hợp tác quốc tế với FAO được tài trợ 1,2 triệu USD, sau này có 40 lượt cán bộ được đi đào tạo ngắn hạn hay dài hạn ở các nước tư bản. Cũng chính anh là người viết đề án xin thành lập Viện Di truyền Nông nghiệp. Sau khi anh mất 40 ngày thì đề án được duyệt, Viện Di truyền Nông nghiệp thành lập vào ngày 10/10/1989.  

Kể từ khi anh mất tới năm 1993, việc nghiên cứu của Viện tạm lắng xuống do nội bộ mất đoàn kết trong lựa chọn người đứng dầu. Bởi thế năm 1990 Bộ Nông nghiệp mới quyết định cử GS.TSKH Vũ Tuyên Hoàng - người đang làm Thứ trưởng kiêm chức Viện trưởng, đến tháng 5 năm 1993 tôi được bổ nhiệm làm Viện trưởng…

Tôi nhớ mãi chuyện anh Phải cho mình 1 cái ấm điện, 1 cái chậu nhôm và vài bộ quần áo trẻ em cho các con. Anh rất thương cán bộ nghiên cứu, hễ đi nước ngoài có quần áo, bàn là, ấm điện, xích, líp xe đạp… đều cho anh em. Anh chăm lo đời sống cán bộ bằng việc thúc đẩy chuyển giao tiến bộ kỹ thuật là giống mới tới nông dân rồi đổi lấy thóc, lợn, gà, rau… về chia nhau.

Vợ chồng anh Phải chỉ có một người con gái là Phan Lê Minh. Cháu học Đại học Ngoại ngữ, trước có làm ở Phòng Hợp tác Quốc tế của Viện Di truyền Nông nghiệp, về sau làm đại diện cho một doanh nghiệp nước ngoài, hiện vợ chồng đều định cư ở Tiệp Khắc.

Đời sống cán bộ được cải thiện thấy rõ, mỗi tháng 5 - 10kg gạo, 1 - 1,5kg thịt, Tết thì nhiều hơn. Anh Phải là cấp trưởng nhưng vẫn hưởng như nhân viên nên cán bộ rất quý.

Kỹ sư Nguyễn Lân Hùng kể: Từ năm 1973 tôi giảng dạy ở Khoa Sinh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhưng lại luôn hướng tới các nghiên cứu ứng dụng nên thường liên hệ với Viện Sinh học. Trưởng Phòng Di truyền của Viện Sinh học là GS.TSKH Phan Phải - một nhà khoa học nổi tiếng. Anh rất thích cách làm thiên về thực tiễn và ước ao tìm ra cái mới cho nông dân của tôi nên đi đâu cũng kéo theo.

Lúc ấy tôi làm nhiều thứ ứng dụng, trong đó có phân vi lượng, chế phẩm sinh học. Một số người ở Viện không thích Phan Phải bởi anh được Chính phủ cấp cho một ô tô riêng để đi lại nên tỏ ta khó chịu. Thêm vào đó một số người cũng ghen tị với tài năng của anh.

Những nghiên cứu của anh luôn gắn với thực tiễn. Hồi đó giới khoa học Việt Nam vẫn theo học thuyết Mitsurin - Lưxenco của Liên Xô, chủ yếu là lai ghép nhưng anh Phải lại dùng phương pháp đột biến, dùng tia phóng xạ chiếu vào hạt giống, có khi 99% bị chết nhưng có 1% sống chính là đột biến gene. Những hạt còn sống ấy mọc thành cây, cây nào lên tốt, có những đặc tính quý thì được chọn để nhân tiếp. Lúc đó đa số nhà khoa học Việt Nam không ủng hộ anh vì họ không tin vào phương pháp này sẽ thành công, nhưng một số thì ủng hộ, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tôi đưa những giống mới của anh xuống các HTX. Anh là người to lớn như Tây nhưng khi đến với bà con thì rất dân dã, chấp nhận kham khổ, cùng ăn, cùng ở với nông dân, tối không có nước thì cùng ra sông tắm. Như đợt đi từ Bắc vào Nam bằng ô tô chúng tôi đến đâu dừng lại chiếu hình rồi nói chuyện về khoa học đến đấy, mà chủ yếu là phương pháp đột biến để tạo ra giống mới. Dân rất thích, cứ bám kín xung quanh.

Có lẽ ở thời ấy anh Phải là số một về chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Một số tỉnh mời anh đến nói chuyện, sau đó các tỉnh khác biết tiếng lại mời tiếp nên chuyến đi kéo dài hàng tháng. Lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các sở khoa học và sở nông nghiệp rất quý anh bởi sự chân thành, không kênh kiệu.

Tôi đã học rất nhiều từ cách nói chuyện của anh qua những chuyến đi như vậy. Cách mà anh đối xử với đồng nghiệp hơn hẳn những người khác là hết sức nâng đỡ. Đơn vị hồi ấy chỉ có 18 người. Những ai đời sống khó khăn là anh đến tận nhà thăm hỏi và giúp. Tết là tôi cùng anh đến các HTX để kiếm thịt lợn về chia cho anh em, không chỉ ở cơ quan mà còn cả các cộng tác viên ở các đơn vị khác.

Về chuyên môn, anh thành lập các nhóm riêng, tạo điều kiện cho họ nghiên cứu. Về tư tưởng chính trị, anh khuyên tất cả mọi người đều nên vào Đảng. Ở đơn vị dù có một số người rất “ba gai” nhưng anh vẫn bảo, Đảng là môi trường giáo dục tốt nhất, ai dù trước đó có kém vào Đảng cũng có thể thành tốt. Không những khuyến khích, anh còn quát tháo mọi người: “Ngày mai cậu phải viết đơn vào Đảng đấy”. Bởi thế, cuối cùng 18 người của đơn vị đều vào Đảng hết. Nếu họ không được vào Đảng thì về sau làm sao mà phát triển nổi?

Tôi đánh giá cao anh Phải ở mấy điểm. Thứ nhất, anh người khởi xướng tạo giống bằng đột biến và quyết tâm đi theo hướng đó, gắn nó với thực tiễn. Thứ hai, anh biết động viên cán bộ, cộng tác viên, đoàn kết mọi người thành một khối để cùng nghiên cứu tạo giống bằng phương pháp đột biến giữa bối cảnh hồi đó chủ yếu là tạo giống bằng lai ghép.

Thứ ba, anh biết vận động để mọi người dùng giống mới của mình. Như giống đậu tương DT84, giống lúa DT10 anh đã đến HTX gặp gỡ bà con, giới thiệu rồi cho thử nghiệm. Khi thử nghiệm tốt rồi thì mọi người mới trồng rộng rãi.

Dương Đình Tường
Tiến Thành
Xem thêm