



Bà Nghiêm Dục Tú, người con gái đầu của cố Bộ trưởng Nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm - tư lệnh đầu tiên của ngành Nông nghiệp Việt Nam, xúc động chia sẻ câu chuyện về người cha của mình.
Bước sang tuổi 83 nhưng ký ức của Nhà giáo ưu tú Nghiêm Dục Tú về người cha đáng kính của mình lúc nào cũng vẹn nguyên. Hơn tất cả, đó là niềm tự hào, kính trọng dù bà thành thật ngay khi tôi gặp: “Tôi là con gái, lớn lên đi lấy chồng, ở bên gia đình chồng nên không có nhiều cơ hội gần gũi với ông như các em trai của tôi”.


Ký ức của bà như những thước phim cũ, chầm chậm chiếu: Cha tôi sinh ra ở làng Tây Mỗ (xã Hữu Hưng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay là phường Tây Mỗ, Thành phố Hà Nội), trong một gia tộc có truyền thống hiếu học và có nhiều người đỗ đạt cao. Ông học rất giỏi, rất hiếu học. Sau khi tốt nghiệp trưởng Bưởi loại ưu, ông được Nhà nước bảo hộ cấp học bổng và là thủ khoa khóa đầu tiên của trường Cao đẳng Nông Lâm Hà Nội. Thời sinh viên, ông vẫn giữ tính cần mẫn, có ý thức tự lập rất sớm. Ông làm gia sư để tự lo kiếm tiền trang trải cuộc sống, học hành.
Có lẽ, lý do cha tôi chọn chuyên ngành nông nghiệp bởi ông thấy nước mình là nước nông nghiệp, có lợi thế đất đai, nguồn nước..., nông dân chiếm số đông mà đời sống còn bấp bênh. Vì thế, ông muốn trau dồi kiến thức để sau này có thể giúp ích cho bà con nông dân, trực tiếp áp dụng những kiến thức, hiểu biết từ lý thuyết vào thực tiễn sản xuất. Nông nghiệp là ngành sản xuất thực chất, việc học đi đôi với hành.
Tốt nghiệp kỹ sư canh nông với bằng loại ưu vào năm 1941, ông từ chối làm việc cho chính quyền bảo hộ. Vì lẽ này, chính quyền cai trị thu hồi học bổng đã đài thọ ông suốt quá trình học, mỗi tháng ông phải trả lại 25 đồng Đông Dương.
“Mẹ tôi kể chuyện, thời kỳ đó, 1 tạ gạo có giá 3 đồng, vị chi mỗi tháng ông phải trả nợ hơn 8 tạ gạo, đó là một số tiền rất lớn. Nếu nhận lời đi làm cho chính quyền bảo hộ, ông sẽ được nhận lương rất cao nhưng ông vẫn quyết định từ chối. Đó là sự khảng khái, quyết đoán, thể hiện rõ quan điểm chính trị của cha tôi”, bà Dục Tú chia sẻ.


Mẹ tôi, tiểu thư Đào Thị Thuận là ái nữ của một gia đình doanh nhân giàu có, nổi tiếng Hà thành từ giai đoạn trước những năm 1930: gia đình nhà tư sản Đào Tiến Tường - Dương Thị Hạnh trên phố Hàng Giấy, một nhà buôn nước mắm nổi tiếng ở Hà Nội thời kỳ trước cách mạng. Cụ Tường - cụ Hạnh là những người có khiếu kinh doanh, tư duy sắc bén nên đã tạo lập được một chuỗi cửa hàng bán nước mắm từ Bắc vào Nam nổi tiếng giai đoạn những năm 1930. Tại Hà Nội, địa chỉ 24 Hàng Giấy là cửa hiệu nước mắm thuộc loại lớn nhất thời kỳ bấy giờ.
Cha tôi đỗ tú tài năm 1936, ông nhận làm gia sư dạy cho con trai của cụ Đào Tiến Tường. Từ đó, cha mẹ tôi quen nhau. Được bố tôi kèm học, cậu tôi tiến bộ rất nhanh, sau 3 tháng đỗ vào trường Bưởi nên bà ngoại tôi rất mến, đồng ý gả tiểu thư khuê các cho anh sinh viên trường Canh nông sau này”, bà Nghiêm Dục Tú chia sẻ.


Ông bà ngoại tôi thuộc thế hệ người Hà Nội sớm dấn thân vào phong trào yêu nước thời tiền khởi nghĩa, lặng lẽ nhưng kiên quyết đấu tranh chống lại chế độ cai trị của thực dân Pháp. Hai cụ đã đi theo tiếng gọi của cụ Nguyễn Thái Học, gửi trọn niềm tin vào cuộc khởi nghĩa yêu nước của cụ. Ngôi nhà 24 phố Hàng Giấy là điểm cất giấu vũ khí của nghĩa quân, bên dưới những thống nước mắm bằng sành cao hơn đầu người.
Năm 1930, khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, biến cố ập xuống. Ông bà ngoại tôi đều bị bắt. Ông tôi bị Pháp giam giữ trên nhà tù Sơn La khắc nghiệt rồi mất vì bệnh ho lao. Bà ngoại tôi bị giam giữ ở nhà tù Hỏa Lò. Sau này nhờ gia đình chạy vạy, cụ được thả nhưng bệnh tật đeo đẳng nên cũng ra đi vào năm 1945. Những câu chuyện về hai cụ, với tôi, luôn là ký ức âm ỉ nỗi đau nhưng cũng sáng lên niềm tự hào về lòng quả cảm.
Dù là tiểu thư khuê các nhưng lớn lên trong hoàn cảnh mất mát ấy nên mẹ tôi là người vô cùng kiên cường. Ngày ông bà ngoại tôi bị bắt, mẹ tôi 16 tuổi đã cùng chị gái vượt hàng trăm km lên nhà tù Sơn La thăm cha.

Bà còn là người ham học, say mê tri thức. Thời nhỏ, bà học tại trường Anbe Saro (Albert Sarraut), nơi vốn chỉ mở cửa cho con em người Pháp và những gia đình thượng lưu Việt Nam. Trong những năm 40 của thế kỷ trước, việc một phụ nữ Việt Nam thi đỗ tú tài là điều vô cùng hiếm hoi. Sau này, bằng nỗ lực tự học bền bỉ, bà thành thạo các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Nga… rồi công tác tại Thông tấn xã Việt Nam.
Tôi vẫn luôn nghĩ, nghị lực và khí phách của mẹ chính là sự tiếp nối lặng lẽ từ cuộc đời nhiều hy sinh của ông bà ngoại, như một mạch nguồn không bao giờ vơi trong gia đình chúng tôi. Và mẹ tôi gặp bố tôi đúng là một sự hòa hợp tự nhiên, như duyên trời định. Bởi cả hai đều ham học, giàu ý chí, và mang trong mình tấm lòng ngay thẳng, sáng trong với đất nước và nhân dân.
Hồi cha tôi tốt nghiệp kỹ sư canh nông nhưng từ chối làm việc cho chính quyền bảo hộ và phải trả lại tiền học bổng, mỗi tháng 25 đồng Đông Dương, mẹ tôi mang bán hết tài sản tư trang, vay mượn thêm để mua một khu đất rộng 3-4 ha tạ Sơn Cẩm (Thái Nguyên). Hai ông bà làm trang trại, vừa cấy lúa, vừa trồng chè, trồng sắn, chăn nuôi gà vịt trâu bò... ròng rã suốt 4 năm trả nợ. Khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cha tôi mới thoát khỏi món nợ với chính quyền cũ.
Khi cha mẹ tôi làm trang trại ở Thái Nguyên, tôi mới 1 tuổi (bà Nghiêm Dục Tú sinh năm 1942 - PV). Tôi còn nhớ Sơn Cẩm là vùng đồng rừng, rất hoang vu, rậm rạp. “Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế” kia mà. Làm nông vốn nhọc nhằn lam lũ, thời cha mẹ tôi chưa có máy móc, cơ giới hóa… chắc chắn vất vả bội phần. Một tiểu thư con nhà giàu như mẹ tôi, một kỹ sư dù học canh nông song chưa quen lao động chân tay "một nắng hai sương" như cha tôi, lúc đó, đã vượt qua hoàn cảnh thì thấy rõ quyết tâm và tình yêu của ông bà lớn nhường nào.


Tháng 6/1944, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, những sinh viên yêu nước trong Tổng Hội sinh viên đứng ra thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Ông Nghiêm Xuân Yêm là một trong những thành viên tham gia sáng lập. Sau này, Đảng Dân chủ gia nhập Mặt trận Việt Minh, ông tiếp tục tham gia tích cực các phong trào do Việt Minh phát động.


“Ngay từ thời học trường Bưởi, cha tôi đã viết báo cho tờ Thanh Nghị - diễn đàn của tầng lớp thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Ông phụ trách mảng nông nghiệp, dành nhiều tâm sức viết các bài báo cho nông dân và canh tác. Qua những bài viết ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra kiến thức và tâm huyết với nông nghiệp của cha tôi, và đã có ý định giao phụ trách lĩnh vực canh nông của chính quyền cách mạng non trẻ.
Sau Cách mạng tháng Tám, cha tôi được giao phụ trách Nha Nông nghiệp Miền Bắc. Năm 1947, Chính phủ cử ông làm Thứ trưởng Bộ Canh nông, điều hành toàn bộ lĩnh vực nông nghiệp trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc (từ năm 1947 cho tới 1954). Khi Bộ Canh nông đổi thành Bộ Nông lâm rồi Bộ Nông nghiệp…, ông tiếp tục đảm trách cương vị Bộ trưởng. Năm 1963, khi Nhà nước thành lập Nông trường quốc doanh, ông lại được điều động làm Bộ trưởng Nông trường quốc doanh.
Từ năm 1971, các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Nông trường được sáp nhập thành Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Trong cơ quan mới, ông Hoàng Anh làm Chủ nhiệm, cha tôi được cử làm Bộ trưởng phụ trách về khoa học kỹ thuật - lĩnh vực ông coi là "chìa khóa" của sản xuất nông nghiệp. Nhờ nắm vững cả kỹ thuật lẫn quản lý nên đến năm 1982, khi ấy đã gần 70 tuổi, ông vẫn tiếp tục được giao phụ trách lĩnh vực khoa học kỹ thuật của ngành nông nghiệp.


Từ năm 1982, cha tôi chuyển sang làm Phó Chủ tịch Quốc hội và là đại biểu Quốc hội liên tục 7 khóa (từ khóa I cho tới khóa VII). Sau khi nghỉ hưu vào năm 1991, ông thành lập Hội Làm vườn Việt Nam và giữ cương vị Chủ tịch. Cả cuộc đời ông gắn với ngành nông nghiệp, một sự gắn bó tha thiết đến tận cuối đời”, người con gái cố Bộ trưởng Nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm nhớ lại.
Năm 2011, Thành phố Hà Nội đã lấy tên ông để đặt tên đường - đường Nghiêm Xuân Yêm (phường Hoàng Mai), nối dài trục Phạm Hùng - Nguyễn Xiển - như một sự tri ân dành cho thế hệ những nhà trí thức, nhà khoa học cả đời cống hiến cho cách mạng và ngành nông nghiệp rộng lớn của đất nước. Tại Đà Nẵng, cũng có một con đường mang tên ông.
“Ông rất hiền, ít nói, chưa bao giờ nói to với con cái. Hết giờ ở cơ quan, về nhà, ông lại miệt mài đọc tài liệu, viết báo suốt đêm. Ông luôn trăn trở về ruộng đất, về cuộc sống khốn khó của người nông dân thời thuộc địa. Sau này làm quản lý, ông vẫn không ngừng viết, hướng dẫn bà con thoát cảnh độc canh cây lúa, gắn trồng trọt với chăn nuôi, cải tạo giống…
Với gia đình, ông gửi gắm những ước vọng qua từng cái tên của các con: Dục Tú - những tinh tú trong giáo dục, học tập; hay tên các em tôi Thanh Đạm, Thanh Khiết, Thanh Tịnh, Thanh Minh - những cái tên giản dị, trong sạch như chính ngành nông nghiệp mà ông suốt đời đam mê, cống hiến, phụng sự”, Nhà giáo ưu tú Nghiêm Dục Tú xúc động.
Ngoài đẩy mạnh phát triển chính sách nông nghiệp, ông Nghiêm Xuân Yêm cũng rất lưu ý đến công tác tuyên truyền, đặc biệt là báo chí. Vì vậy, những tờ báo được Bộ Canh nông quan tâm phát triển để đưa kiến thức nông nghiệp đến với nông dân như Tập san Canh nông, Báo Toàn dân Canh tác… đều đặn phát hành bất chấp các trận càn quét của thực dân Pháp.
Tháng 2/1955, Bộ Canh nông được đổi tên thành Bộ Nông lâm. Kế thừa và phát huy Báo Toàn dân Canh tác và Tập san Canh nông, Tập san Nông lâm, Tạp chí Nông lâm lần lượt ra đời để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Sau đó được đổi tên thành Báo Nông nghiệp - Cơ quan hướng dẫn sản xuất nông lâm ngư nghiệp của Bộ Nông lâm và Báo Nông lâm - Cơ quan phổ biến kỹ thuật của Bộ Nông lâm. Chủ nhiệm báo là Bộ trưởng Bộ Nông lâm: ông Nghiêm Xuân Yêm.




