Xuất khẩu trái cây của Việt Nam đang bứt phá mạnh mẽ, hướng tới những thị trường cao cấp với yêu cầu kỹ thuật và truy xuất khắt khe hơn. Cùng với nỗ lực mở rộng thị trường, ngành nông nghiệp đang chuyển trọng tâm sang xây dựng các vùng nguyên liệu đạt chuẩn quốc gia, coi đây là nền tảng để đảm bảo chất lượng, ổn định nguồn cung và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 2 vùng nguyên liệu trọng điểm - miền núi phía Bắc (Sơn La, Phú Thọ) và Đồng Tháp Mười - được quy hoạch trong Đề án Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) về những yếu tố nền tảng giúp hình thành vùng nguyên liệu chuẩn và hướng đi dài hạn cho ngành trái cây.

Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit). Ảnh: NVCC.
PV: Hiệp hội đánh giá thế nào về việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, với đầu mối là Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, đang xây dựng các vùng nguyên liệu trái cây đạt chuẩn xuất khẩu tại các vùng sản xuất trọng điểm?
Ông Đặng Phúc Nguyên: Đây là hướng đi rất đúng và cần thiết. Khi chúng ta đẩy mạnh xuất khẩu trái cây sang các thị trường khó tính như Australia, Hoa Kỳ, EU hay Hàn Quốc, yêu cầu đầu tiên chính là tính đồng nhất và truy xuất nguồn gốc vùng trồng. Muốn làm được điều đó, bắt buộc phải có quy hoạch vùng nguyên liệu chuẩn hóa về kỹ thuật, giống, và quy trình sản xuất.
Tôi cho rằng việc Bộ chọn miền núi phía Bắc, với Sơn La, Phú Thọ làm trung tâm và Đồng Tháp Mười làm hai vùng trọng điểm là hợp lý. Đây là 2 khu vực có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu đa dạng, có thể đại diện cho cả vùng cây ăn quả phía Bắc lẫn Nam bộ. Khi được đầu tư bài bản, những vùng này sẽ trở thành “cực sản xuất” lớn, cung cấp nguồn nguyên liệu ổn định cho cả tiêu thụ trong nước lẫn chế biến và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, từ các vùng chuẩn này, doanh nghiệp có thể mở rộng sang sản phẩm chế biến sâu, như sấy, nước ép, tinh dầu hay mứt, nhằm tăng giá trị gấp đôi, gấp ba so với xuất khẩu thô.
PV: Theo Vinafruit, đâu là những yếu tố then chốt để một vùng nguyên liệu thực sự trở thành nền tảng vững cho xuất khẩu?
Ông Đặng Phúc Nguyên: Trước hết, quy hoạch phải phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và đặc tính sinh học của cây trồng. Không thể áp một loại giống hay quy trình chung cho mọi địa phương. Việc chọn đúng cây, đúng vùng là nền tảng đầu tiên để đảm bảo năng suất và chất lượng ổn định.
Thứ hai, phải chú trọng đến giống cây có tính cạnh tranh quốc tế. Không phải loại quả nào của Việt Nam cũng có thể xuất khẩu, và trong từng loại cũng không phải giống nào được thị trường chấp nhận. Chẳng hạn, cùng là bưởi nhưng thị trường EU, Hoa Kỳ hay Australia chỉ quan tâm đến những giống có hương vị đặc trưng, vỏ mỏng, múi ráo, dễ bảo quản. Vì vậy, việc nghiên cứu chọn tạo giống và đăng ký thương hiệu vùng trồng cần được đặt song song với quy hoạch.
Yếu tố thứ ba là áp dụng khoa học kỹ thuật. Sản xuất phải tuân thủ VietGAP, GlobalGAP, hoặc các tiêu chuẩn tương đương. Truy xuất nguồn gốc điện tử, nhật ký đồng ruộng, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật... tất cả đều phải được chuẩn hóa. Những điều này không chỉ giúp vượt rào kỹ thuật khi xuất khẩu, mà còn tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong nước.
Cuối cùng, nhưng rất quan trọng, là nâng cao nhận thức người nông dân. Khi hiểu rằng tiêu chuẩn là chìa khóa để hàng hóa đi xa, họ sẽ tự giác thay đổi cách canh tác, không chỉ chạy theo năng suất mà chú trọng chất lượng và an toàn.

Nông dân Sơn La phát triển cây chanh leo - sản phẩm chủ lực của địa phương. Ảnh: Đức Bình.
PV: Từ thực tế theo dõi các doanh nghiệp hội viên, hiệp hội nhận thấy quá trình hình thành vùng nguyên liệu hiện còn vướng ở những điểm nào?
Ông Đặng Phúc Nguyên: Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay vẫn là quy mô sản xuất manh mún. Nhiều hộ nông dân chỉ sở hữu vài sào đất, canh tác riêng lẻ, dẫn đến khó đồng bộ quy trình và kiểm soát chất lượng. Sự liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp còn lỏng lẻo, trong khi đây là mấu chốt để hình thành vùng trồng đạt chuẩn.
Một khó khăn khác là hạ tầng kỹ thuật và thủy lợi ở nhiều nơi chưa đáp ứng được sản xuất hàng hóa lớn. Ở miền núi phía Bắc, đường giao thông và kho lạnh còn thiếu, khiến chi phí vận chuyển, bảo quản cao. Còn tại ĐBSCL, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng trái cây.
Ngoài ra, khoảng cách thông tin giữa nông dân và thị trường vẫn rất lớn. Mỗi quốc gia nhập khẩu có quy định khác nhau về kiểm dịch, dư lượng hay danh mục thuốc được phép sử dụng. Nếu người trồng không được tập huấn kỹ, chỉ một sai sót nhỏ cũng khiến cả lô hàng bị trả về.
PV: Với vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý, Vinafruit đang triển khai hoặc đề xuất hình thức hỗ trợ nào để giúp các vùng nguyên liệu đạt chuẩn xuất khẩu ổn định?
Ông Đặng Phúc Nguyên: Hiệp hội hiện tập trung vào 3 hướng chính. Thứ nhất, phối hợp với các cơ quan quản lý và tổ chức quốc tế để cập nhật thông tin thị trường và rào cản kỹ thuật. Khi có thay đổi trong quy định nhập khẩu, chúng tôi kịp thời thông tin cho hội viên, đồng thời kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm có hướng dẫn phù hợp.
Thứ hai, thúc đẩy các chương trình tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và truy xuất nguồn gốc điện tử. Chúng tôi phối hợp cùng địa phương tổ chức hướng dẫn về quy trình canh tác sạch, quản lý nhật ký sản xuất và ghi nhãn QR cho từng vùng trồng.
Thứ ba, kết nối các doanh nghiệp đầu tàu và hợp tác xã. Một số doanh nghiệp lớn hiện đã đứng ra bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ giống, phân bón, hướng dẫn quy trình kỹ thuật. Khi liên kết chuỗi hình thành, vùng nguyên liệu sẽ tự động đi vào quy chuẩn, không còn cảnh sản xuất manh mún như trước.
PV: Nhìn về dài hạn, theo ông, cần ưu tiên chính sách hay đầu tư nào để các vùng nguyên liệu trọng điểm thực sự trở thành mô hình mẫu cho ngành trái cây Việt Nam?
Theo tôi, điều quan trọng nhất là chính sách phải ổn định và dài hạn. Phát triển vùng nguyên liệu không thể chỉ bằng vài năm dự án, mà cần tầm nhìn 10-20 năm.
Trước hết, Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và đất đai để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào vùng trồng. Hạn điền nên được nới rộng để tạo điều kiện tích tụ đất, giúp sản xuất quy mô lớn và dễ cơ giới hóa.
Bên cạnh đó, cần tăng vốn vay ưu đãi cho doanh nghiệp chế biến sâu, vì chế biến chính là “đầu ra bền vững” của vùng nguyên liệu. Khi có nhà máy gắn liền với vùng trồng, nông dân sẽ yên tâm sản xuất theo đơn hàng và tiêu chuẩn ổn định.
Cuối cùng là đầu tư hạ tầng logistics nông nghiệp, như đường giao thông, kho lạnh, hệ thống bảo quản, trung tâm chiếu xạ... để giảm thất thoát sau thu hoạch và tăng khả năng cạnh tranh quốc tế.
Nếu làm tốt, tôi tin rằng các vùng nguyên liệu được xây dựng trong đề án sẽ trở thành hình mẫu cho nông sản Việt , giúp trái cây nước ta không chỉ mở rộng thị trường mà còn khẳng định thương hiệu quốc gia về chất lượng và tính bền vững.