Trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường nhân chuyến công tác tại Hà Nội, ông Hamish Marr, Đặc phái viên đặc biệt về Thương mại nông nghiệp New Zealand (SATE) đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu bền vững.
Từ một quốc gia có dân số chỉ hơn 5 triệu người nhưng xuất khẩu tới hơn 120 thị trường, New Zealand được xem là hình mẫu toàn cầu về quản lý chất lượng, hợp tác chuỗi và phát triển giá trị gia tăng trong nông nghiệp.

Ông Hamish Marr, Đặc phái viên đặc biệt về Thương mại nông nghiệp New Zealand (SATE). Ảnh: Hồng Ngọc.
Minh bạch chất lượng là nền tảng niềm tin cho thị trường
Theo ông Hamish Marr, điểm cốt lõi giúp New Zealand duy trì vị thế trong thương mại nông nghiệp quốc tế là hệ thống truy xuất nguồn gốc và bảo đảm chất lượng đồng bộ từ trang trại tới bàn ăn.
“Hệ thống truy xuất nguồn gốc của chúng tôi đã được hình thành và hoàn thiện qua nhiều năm và vẫn đang tiếp tục phát triển. Với New Zealand, đạt chuẩn thị trường không phải mục tiêu mà là điều kiện sinh tồn", ông nói.
Hệ thống này vận hành theo hai tầng liên kết: Tầng chính phủ - chính phủ, bao gồm toàn bộ các quy định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch cây trồng, vật nuôi, được giám sát nghiêm ngặt.
Tầng doanh nghiệp - doanh nghiệp, gồm các tiêu chuẩn tự nguyện như Halal hay Organic, có cơ chế kiểm toán độc lập và liên thông dữ liệu.
Cả hai tầng hợp thành mạng lưới bảo đảm chất lượng toàn diện. Hiện nông dân New Zealand có thể truy xuất hầu hết đầu vào và đầu ra trong sản xuất nông nghiệp ngay trên điện thoại di động với dữ liệu được cập nhật theo thời gian thực.
Theo báo cáo tháng 9/2025 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó nông sản đạt 28,51 tỷ USD, thủy sản 8,12 tỷ USD, lâm sản 13,41 tỷ USD và sản phẩm chăn nuôi 447,5 triệu USD.
Những con số này cho thấy tiềm năng tăng trưởng mạnh của nông sản Việt Nam, song để duy trì vị thế lâu dài, việc minh bạch chất lượng và truy xuất nguồn gốc cần trở thành tiêu chuẩn bắt buộc, không chỉ là nỗ lực đơn lẻ.
Hợp tác xã: Hạt nhân của chuỗi giá trị bền vững
Chia sẻ về kinh nghiệm tổ chức sản xuất, ông Marr cho rằng sức mạnh của nông nghiệp New Zealand không nằm ở quy mô mà ở tinh thần hợp tác và khả năng tổ chức chuỗi.
“Chúng tôi chỉ có 5 triệu dân, nhưng lại xuất khẩu ra toàn cầu. Điều đó chỉ khả thi khi nông dân cùng nhau hợp tác. Hợp tác xã không cần lớn hay giàu mà cần tinh thần gắn kết và mục tiêu chung", ông nói.

Hệ thống vắt sữa bò tự động vận hành ban đêm tại trang trại hiện đại, ứng dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất. Ảnh: New Zealand Story.
Theo ông, ba yếu tố quyết định thành công của hợp tác xã là tinh thần tập thể, lãnh đạo có tầm nhìn và sự kiên trì trong quá trình vận hành. Các hợp tác xã nhỏ tại New Zealand thường liên kết hoặc sáp nhập để đạt quy mô đủ lớn, từ đó đầu tư nhà máy, kho lạnh và trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc tế.
Mô hình này đang dần được Việt Nam áp dụng. Cũng theo báo cáo tháng 9/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai các chương trình hỗ trợ hợp tác xã liên kết với doanh nghiệp chế biến, hình thành chuỗi nông sản có truy xuất, bảo quản và tiêu chuẩn hóa - yếu tố nền tảng để giảm rủi ro “được mùa, rớt giá”.
Ba trụ cột nâng vị thế nông sản Việt
Sau khâu tổ chức sản xuất, bài toán lớn hơn của nông nghiệp Việt Nam nằm ở việc giữ và nâng giá trị sản phẩm thông qua đầu tư chế biến sâu, hoàn thiện logistics và xây dựng thương hiệu quốc gia.
Là quốc gia nằm xa các trung tâm tiêu thụ lớn, New Zealand luôn chú trọng chế biến sâu và công nghệ logistics hiện đại để bảo đảm giá trị sản phẩm sau thu hoạch.

Quy trình xử lý và làm sạch táo sau thu hoạch tại nhà máy, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn và chất lượng. Ảnh: New Zealand Story.
“Chúng tôi luôn cố gắng xuất khẩu sản phẩm có giá trị cao nhất để giảm chi phí logistics. Với sữa, phát triển công nghệ sấy bột giúp kéo dài thời gian bảo quản, với trái cây, hợp tác xã đầu tư kho lạnh lớn cho nhiều hộ cùng sử dụng", ông Marr chia sẻ.
Tại Việt Nam, tổn thất sau thu hoạch của rau quả dao động từ 15 - 25%, thủy sản 10 - 12%, lúa gạo khoảng 8%.
Nếu giảm được một nửa, giá trị gia tăng có thể lên tới hàng tỷ USD mỗi năm, tương đương mức lợi nhuận thuần của toàn ngành chế biến nông sản hiện nay.
Theo ông Marr, trong bối cảnh các hàng rào kỹ thuật và thuế quan thay đổi liên tục, đa dạng hóa thị trường và khác biệt hóa sản phẩm là hướng đi sống còn.
“Nếu là nông dân Việt Nam, tôi sẽ cố khiến thị trường phải tìm đến sản phẩm của mình thay vì chỉ mang hàng ra bán", ông nói.
Cùng với đa dạng hóa, ông Marr nhấn mạnh tầm quan trọng của thương hiệu quốc gia: “Thương hiệu không chỉ là logo hay khẩu hiệu mà là hình ảnh ăn sâu trong tâm trí người tiêu dùng. Nhắc đến Pháp là rượu vang, nhắc đến Canada là thực phẩm tinh khiết. Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều tương tự nếu xác định rõ ba giá trị đặc trưng và quảng bá đồng bộ trên mọi lĩnh vực", ông chia sẻ.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng tới xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia với mục tiêu định vị nông sản Việt bằng chất lượng, uy tín và tính bền vững.
Nhìn từ kinh nghiệm New Zealand, ông Hamish Marr cho rằng sức mạnh của nông nghiệp không nằm ở quy mô mà ở tư duy tổ chức minh bạch, tinh thần hợp tác và khả năng gia tăng giá trị sau thu hoạch. Với nền sản xuất phong phú, nguồn lao động dồi dào và tốc độ chuyển đổi nhanh, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 70 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong năm 2025 nếu triển khai đồng bộ ba trụ cột chất lượng - hợp tác - chế biến.