Nhiều người vẫn quen gọi ông là “nhà báo Nguyễn Sĩ Dũng”, dù ông chưa từng qua trường lớp báo chí, cũng chẳng có thẻ nghề. Những ai đọc ông - từ bạn đọc phổ thông cho đến giới chuyên môn - đều dễ nhận ra một giọng điệu rất riêng: sắc sảo mà mạch lạc, lý lẽ mà vẫn đượm chất đời thường và thấu cảm.
Với người trong nghề chúng tôi, cái tên TS Nguyễn Sĩ Dũng giống như một “thương hiệu tin cậy” cho các bài viết phản biện xã hội. Có lúc ông trả lời phỏng vấn, có khi lại trực tiếp cầm bút. Nhưng dù ở vai nào thì chất “ông đồ Nghệ” vẫn không lẫn đi đâu được - vừa uyên bác, vừa duyên dáng, vừa… rất thật.


Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trò chuyện thú vị với TS Nguyễn Sĩ Dũng, một “nhà báo không chuyên nhưng rất nghề” - người mà giới báo chí đôi khi vẫn nửa đùa nửa thật gọi là “người viết báo chuyên nghiệp nhất trong số các học giả, và là học giả nhất trong số những người viết báo”.


Mở đầu cuộc trò chuyện với TS Nguyễn Sĩ Dũng, tôi nhắc lại một kỷ niệm từ hơn 13 năm trước.
Hồi đó, Báo Nông nghiệp Việt Nam (nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường) chính là cơ quan báo chí đầu tiên đặt vấn đề về thực trạng bộ máy hành chính cồng kềnh, tiêu tốn nhiều ngân sách nhưng hiệu quả chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn - đặc biệt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
Loạt bài “Ngân sách nào kham nổi?” được đăng tải sau đó đã tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ. Bài “Rùng mình xã có 500 cán bộ ở Thanh Hóa” gây chú ý đặc biệt, khi phản ánh những bất cập về khái niệm “cán bộ” cũng như số lượng người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách. Nhiều ý kiến đồng thuận, không ít bức xúc, và câu chuyện đã đến được cả với người đứng đầu Chính phủ.
Sau đó, nhiều cơ quan báo chí khác và cả VTV đã tiếp tục vào cuộc. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ một bài viết ngắn của TS Nguyễn Sĩ Dũng có tựa đề “Lạm phát… đầy tớ”. Bài viết chỉ vài trăm chữ, nhưng hàm chứa một góc nhìn sâu sắc, góp thêm tiếng nói học thuật vào bức tranh tổng thể mà báo chí đang phản ánh về tình trạng phình to của bộ máy hành chính - một bộ máy đang tiêu tốn hơn 70% nguồn lực quốc gia cho chi thường xuyên.
Từ cơ duyên đó, trong những năm sau này, mỗi khi thực hiện các chuyên đề mang tính phản biện chính sách, chúng tôi thường tìm đến TS Nguyễn Sĩ Dũng - không chỉ vì ông am hiểu sâu sắc, mà còn vì cách ông diễn đạt rõ ràng, mạch lạc và đầy trách nhiệm với công chúng.
Cũng từ những lần cộng tác như thế, tôi biết thêm một câu chuyện nhỏ: Có người từng khuyên ông, rất thẳng thắn - “Cậu phải lựa chọn: muốn lên nữa thì đừng viết báo.”
Ông chọn tiếp tục viết. Không phải để phản đối điều gì, mà đơn giản vì ông tin rằng, một tiếng nói đúng lúc và có lý vẫn luôn cần thiết trong đời sống công.

Thưa TS Nguyễn Sĩ Dũng, nhắc lại chuyện cũ là vì sau hơn 13 năm, chúng ta cùng đặt vấn đề “lạm phát đầy tớ”, bây giờ Trung ương đang thực hiện Nghị quyết 18 với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy. Không chỉ có thế, theo dõi nhiều bài viết khác của ông, tôi nhận thấy vừa có lý lẽ thuyết phục của một chuyên gia lại vừa có sự sắc sảo của một cây bút lão luyện. Vậy, câu hỏi đầu tiên, ông viết báo từ bao giờ và vì sao lại viết?
Tôi vốn là dân chuyên Văn ở Nghệ An, nên cái máu viết lách đã có từ nhỏ. Sau này, trong quá trình công tác tại Văn phòng Quốc hội, phụ trách mảng báo chí, tôi có điều kiện gần gũi, tiếp xúc và làm việc nhiều với các anh chị em trong nghề. Cơ duyên nghề nghiệp khiến niềm đam mê viết trở lại một cách rất tự nhiên.
Ở vị trí công tác, tôi có cơ hội quan sát và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống chính trị - xã hội. Có những điều khiến mình trăn trở, muốn được chia sẻ, dù đôi khi góc nhìn của mình có thể không giống số đông. Tôi cũng luôn mong muốn báo chí phát huy tốt vai trò phản biện, giám sát - không chỉ là đưa tin, mà còn là tiếng nói trung thực và đa chiều của nhân dân. Vì vậy, thay vì quản lý báo chí theo cách khắt khe, chúng tôi trong Văn phòng Quốc hội đã cố gắng tạo không gian cởi mở để báo chí hoạt động, đồng hành cùng Quốc hội. Có lẽ cũng vì vậy mà tôi được anh em báo chí quý mến.
Nhiều tờ báo tin tưởng, mời tôi viết bài. Viết để chia sẻ những điều mình suy nghĩ, những điều ấp ủ trong lòng. Tôi chỉ mong thông qua đó có thể đóng góp một phần nhỏ bé cho xã hội.
Cũng có bạn bè thân thiết khuyên tôi: “Ông có năng khiếu viết báo đấy, nhưng nếu còn muốn phát triển sự nghiệp chính trị thì nên dừng lại”. Đại ý là: Một là viết tiếp, nhưng phải chấp nhận dừng lại ở vị trí hiện tại; hai là, nếu muốn tiến xa hơn, thì nên thôi viết báo.
Lời khuyên ấy khiến tôi suy nghĩ nhiều. Tôi nghĩ, thứ nhất, chuyện có tiến xa hơn nữa hay không đâu chỉ phụ thuộc vào việc mình có viết báo hay không. Nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Thứ hai, viết báo với tôi không chỉ là sở thích, mà còn là một cách để chia sẻ điều đúng đắn, để góp tiếng nói cho một xã hội tiến bộ hơn. Dừng lại chỉ vì lo ngại ảnh hưởng đến vị trí hay chức vụ thì thật không đáng.
Và tôi đã lựa chọn tiếp tục viết.
Dường như sau quyết định đó, mọi thứ đều đúng như lời bạn bè ông từng khuyên bảo?
Vâng, đúng là mọi chuyện sau đó diễn ra khá giống như lời bạn bè tôi từng nói (cười). Và có lẽ, nhiều người biết đến tôi là nhờ các bài viết trên báo chí, chứ không hẳn vì chức danh Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Ở một góc độ nhỏ nào đó, nếu có được xã hội ghi nhận, thì chính là nhờ báo chí.
Tuy vậy, cũng từng có người đánh giá rằng tôi viết báo để đánh bóng tên tuổi. Những lời như thế không phải họ nói trực tiếp với tôi, mà tôi chỉ nghe lại từ người khác. Nhưng nhìn chung, đa số các đồng chí lãnh đạo đều độ lượng, hiểu rằng viết báo là một cách chia sẻ suy nghĩ một cách có trách nhiệm, nên cũng không ai trách cứ gì. Suốt mấy chục năm công tác, tôi chưa bao giờ bị kỷ luật hay xem xét gì chỉ vì viết báo cả.
Giờ đây, khi đã nghỉ hưu, tôi lại có thêm thời gian để viết, để chia sẻ, và để lên tiếng nhiều hơn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang bước vào một cuộc cải cách rất đúng hướng - một cuộc cải cách có thể nói là đã bị chậm lại trong một thời gian dài, và nay đang được khơi dậy mạnh mẽ. Tôi tin rằng, đây là một cuộc Đổi mới 2.0, và những gì đang diễn ra trong thực tiễn càng thôi thúc tôi tiếp tục đóng góp thêm góc nhìn, trong khả năng của mình.




Có vẻ như một Nguyễn Sĩ Dũng - “nhà phản biện xã hội” bây giờ mới là phiên bản hoàn thiện nhất, thưa ông?
Nhiều người, đặc biệt là các anh chị em trong giới báo chí, vẫn hay gọi tôi là “nhà phản biện xã hội”. Thực lòng mà nói, tôi thấy cách gọi đó hơi to tát. Tôi chỉ nghĩ đơn giản: mình là người có cơ hội quan sát, có chút hiểu biết và mong muốn chia sẻ một góc nhìn riêng trước những vấn đề của đất nước, của xã hội.
Chẳng hạn, hiện nay chúng ta đang triển khai cuộc cải cách tinh gọn bộ máy - một bước đi rất chiến lược và đúng hướng. Tuy nhiên, tôi nhận thấy vẫn còn không ít người chưa thật sự phân biệt rõ giữa khái niệm "cấp chính quyền" và "cấp hành chính".
Cấp chính quyền là cấp vừa có phân cấp và vừa có phân quyền; cấp hành chính là cấp có phân cấp, nhưng không có phân quyền. Cấp hành chính sinh ra là để thi hành chính sách, chứ không có quyền ban hành chính sách. Cấp chính quyền thì đồng thời là cấp hành chính, nhưng không phải cấp hành chính nào cũng đồng thời là cấp chính quyền. Mặc dù, hầu hết các nước trên thế giới đều có 3 cấp chính quyền, nhưng họ thường có 4-5 cấp hành chính.
Tôi chia sẻ những điều này vì chỉ mong góp thêm một góc nhìn từ thực tiễn quản trị. Cũng không có tham vọng khẳng định điều gì, chỉ đơn giản là một sự chia sẻ. Vì vậy, tôi không thấy cần thiết phải gắn cho mình những danh xưng như “nhà phản biện chính sách” hay “nhà phản biện xã hội”.

Nhưng rõ ràng, như cánh báo chí chúng tôi theo dõi và nhận thấy, các bài báo của ông thường có tính phản biện khá cao và ít nhiều có sự tác động về mặt xã hội khá tích cực? Ông nghĩ sao?
Thực lòng, tôi không có điều kiện để theo dõi đầy đủ xem các bài viết của mình có thực sự tạo ra tác động cụ thể nào đến chính sách hay không. Và nếu tự mình khẳng định điều đó thì e rằng sẽ dễ bị hiểu lầm là tự đề cao bản thân. Tôi chỉ nghĩ đơn giản: Những góc nhìn mà tôi chia sẻ, khi được kết hợp với tiếng nói của báo chí và sự quan tâm của công chúng, có thể đã góp phần nào đó vào quá trình thay đổi nhận thức xã hội, theo hướng tích cực như anh nói.
Chẳng hạn, về vai trò của kinh tế tư nhân - hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đây là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Tôi còn nhớ, khoảng 15 năm trước, tôi có viết một bài nêu quan điểm rằng để phát triển đất nước, cần phải dựa trên ba trụ cột chính: Nhà nước pháp quyền, xã hội công dân và nền kinh tế vận hành dựa trên động lực của khu vực tư nhân. Khi bài báo đăng, tôi từng nhận được một cuộc gọi phê bình rất thẳng thắn từ một vị lãnh đạo. Nhưng đến hôm nay, thực tiễn đã chứng minh rằng hướng tư duy ấy là cần thiết và phù hợp với xu thế phát triển.

Hay như nhiều bài viết khác, tôi cũng chia sẻ góc nhìn về việc cần cân đối giữa tự do và điều chỉnh. Tôi cho rằng, không thể phát triển đất nước bằng cách liên tục ban hành quá nhiều luật và quy định. Làm như vậy sẽ khiến cả người dân và doanh nghiệp bị trói buộc, bó hẹp không gian phát triển. Tư duy đó, giờ đây, cũng đã phần nào được thể hiện qua các chủ trương cắt giảm thủ tục hành chính, giảm gánh nặng pháp lý không cần thiết.
Tôi nghĩ, một số khung tư duy như vậy hiện nay đã được chấp nhận rộng rãi hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lớn về quản trị quốc gia, về cách thức vận hành thiết chế lập pháp mà tôi cho rằng cần tiếp tục được góp ý, phân tích một cách thẳng thắn nhưng xây dựng.
Phản biện xã hội cũng là vai trò và sức mạnh của báo chí. Nếu một xã hội thiếu đi tính phản biện hoặc tiếng nói phản biện của báo chí nói riêng và xã hội nói chung chưa được như kỳ vọng, theo ông sẽ dẫn đến hệ lụy gì?
Theo tôi, trước hết cần phải củng cố nhận thức đúng đắn về vai trò của phản biện xã hội. Lãnh đạo, cơ quan quản lý cũng là một phần của xã hội. Khi toàn xã hội có cái nhìn đúng về phản biện, thì phản biện sẽ trở thành một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển.
Thực tế cho thấy, có những lĩnh vực chúng ta đã xác lập được vai trò không thể thiếu của phản biện - như trong bảo vệ luận án tiến sĩ hay đánh giá đề tài nghiên cứu khoa học. Trong các quy trình đó, nếu không có phản biện, đề tài gần như không có giá trị. Vậy thì tại sao với một chính sách - vốn có tác động sâu rộng hơn nhiều tới đời sống xã hội - chúng ta lại chưa thật sự coi phản biện là một khâu thiết yếu?
Tôi cho rằng, cần nhận thức phản biện chính sách là một phần cấu thành không thể thiếu trong quy trình xây dựng chính sách. Tham vấn công chúng, thực chất, cũng chính là mời gọi phản biện từ công chúng. Khi nhìn nhận được như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng được những chính sách phù hợp hơn, sát thực tiễn hơn và có khả năng thành công cao hơn.
Điều thứ hai cũng rất quan trọng, là phải phân biệt rõ ràng giữa phản biện và chống đối. Nếu một ý kiến được trình bày có lý lẽ, có tinh thần xây dựng, nhằm mục đích giúp chính sách hoàn thiện và mang lại lợi ích cho xã hội - thì đó là phản biện. Ngược lại, nếu chỉ nhắm đến việc phủ định sạch trơn, công kích chính sách một cách thiếu căn cứ, thì đó không còn là phản biện nữa, mà là chống đối.
Tâm lý con người nói chung thường không thích bị phản bác, không thích nghe điều trái với suy nghĩ của mình. Nhưng nếu người làm chính sách, người lãnh đạo biết lắng nghe, thì chính điều đó sẽ giúp họ và chính sách của họ thành công hơn. Không có sự phản biện, người làm chính sách rất dễ rơi vào tình trạng chủ quan, duy ý chí.
Lấy ví dụ như chính sách Khoán 10 - được coi là một trong những chính sách cải cách có tác động lớn nhất trong thời kỳ Đổi mới. Nhiều người nói rằng thành công là do chính sách đã đúng với nguyện vọng của nhân dân. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng tôi nghĩ còn một yếu tố quan trọng khác: Đó là sự dũng cảm lắng nghe, sự thấu hiểu thực tiễn và tinh thần dám chịu trách nhiệm của những người hoạch định chính sách, những người như Bí thư Kim Ngọc.
Nhờ có những con người như thế, phản biện mới được tiếp nhận và chính sách mới có cơ hội thành công.




Thưa ông, nhìn lại hành trình 100 năm của Báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như hành trình của dân tộc, chúng ta có những lãnh tụ, chính khách viết báo lão luyện, bậc thầy như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng… và dường như trên thế giới, nhiều quốc gia khác cũng vậy, dù ở bất cứ chế độ chính trị nào thì viết báo là một kỹ năng quan trọng của các nhà lãnh đạo đất nước. Là chuyên gia phản biện đồng thời là một người viết báo, ông nghĩ sao về câu chuyện này?
Tôi hoàn toàn đồng tình với nhận định rằng, viết báo - hay rộng hơn là khả năng truyền đạt tư tưởng qua ngôn từ - là một kỹ năng rất quan trọng của các lãnh tụ, chính khách. Bởi vì người lãnh đạo, về bản chất, là người dẫn dắt xã hội bằng tư tưởng và tầm nhìn. Mà muốn tư tưởng lan tỏa, muốn tầm nhìn được chia sẻ đến mọi tầng lớp trong xã hội, thì phải biết cách diễn đạt, phải biết viết và phải biết truyền thông.
Điều này không chỉ đúng với Việt Nam - như trường hợp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng… - mà còn là đặc điểm chung ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tổng thống Mỹ hay các Thủ tướng châu Âu, dù ở bất kỳ thể chế chính trị nào, cũng đều cần đến báo chí như một công cụ để kết nối với người dân, để tạo sự đồng thuận trước khi đưa ra quyết sách.


Khi người lãnh đạo xuất hiện trên báo chí, họ không chỉ truyền đạt chủ trương, chính sách, mà còn truyền cảm hứng, khơi dậy niềm tin. Nếu làm tốt điều đó, pháp luật ban hành sau này sẽ nhân văn hơn, dễ đi vào cuộc sống hơn - bởi nó được hình thành trên nền tảng đồng thuận, thay vì áp đặt.
Giai đoạn hiện nay, cá nhân tôi rất phấn khởi khi thấy Tổng Bí thư Tô Lâm thường xuyên có các bài viết quan trọng, thể hiện rất rõ tư tưởng, tầm nhìn và định hướng lãnh đạo. Đó là điều rất cần thiết trong bối cảnh đất nước đang bước vào một thời kỳ phát triển mới. Một chính khách khác mà tôi cũng rất ấn tượng là Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan - người có nhiều bài viết nhẹ nhàng, sâu sắc, gắn với thực tiễn.
Viết báo là cách người lãnh đạo gửi thông điệp của mình đến công chúng một cách trực tiếp và có chiều sâu nhất. Ở góc độ này, báo chí và chính khách luôn có mối quan hệ mật thiết.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!