Dưới tán rừng Nam Tây Nguyên

Không chỉ có cảnh quan tuyệt sắc, những cánh rừng ở tỉnh Đắk Nông cũ còn có tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn như chăn nuôi, trồng cây đặc sản, dược liệu, đặc biệt là du lịch sinh thái...

Rừng Nam Tây Nguyên nằm trên địa bàn xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng (huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông cũ) có diện tích khoảng 27.000ha. Trong đó, gần 24.000ha đất có rừng, do Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Nam Tây Nguyên quản lý. Khu rừng này chính là điểm “nóng” nhất tỉnh Đắk Nông cũ trong thời gian cả chục năm, bởi phần lớn vùng đệm bao quanh rừng là đồng bào thiểu số, họ bám vào rừng để mưu sinh, tình trạng chặt phá rừng làm rẫy, lấy gỗ xảy ra triền miên, khiến chính quyền địa phương và cả lực lượng bảo vệ rừng đau đầu.

Gặp ông Nguyễn Ngọc Bình, Chủ tịch Công ty Lâm nghiệp Nam Tây Nguyên, ông tươi cười: “Đấy là chuyện quá khứ rồi. Nhiều năm nay, chuyện xâm canh, lấn chiếm vùng đệm, chặt phá cây rừng làm rẫy gần như hết rồi. Hiện nay, chỉ còn số đất vùng đệm bị xâm canh từ lâu, chưa thể thu hồi. Năm 2024, đơn vị đã được bình chọn là 1 trong 50 đơn vị kinh tế phát triển xanh, bền vững cả nước rồi”.

“Thế các anh đã làm thế nào để chấm dứt tình trạng nhức nhối bao năm qua?”, tôi hỏi.

Ông Bình trầm ngâm: “Muốn giữ được rừng thì trước hết phải tìm hiểu cư dân bản địa. Nắm rõ thành phần phá rừng là ai? Nếu là lâm tặc từ nơi khác đến, mình phải phối hợp với các lực lượng chuyên trách như công an, kiểm lâm và có biện pháp mạnh. Còn nếu là dân địa phương, thì mình có giải pháp khác, mềm mỏng hơn. Chúng tôi tìm hiểu kỹ thì thấy đa phần tình trạng phá rừng là do người dân vùng đệm, họ phần lớn là đồng bào thiểu số, không hiểu biết pháp luật, kinh tế khó khăn, mưu sinh dựa vào rừng. Nếu quản lý gắt gao mà không có giải pháp gì, chẳng khác nào chặn hết đường sống của họ. Lúc đó, mình có làm gắt cỡ nào cũng không ngăn nổi họ vào rừng. Mấy chục ngàn ha rừng mà đơn vị chỉ có mấy chục con người, lại không thông thuộc rừng như dân, làm sao giữ nổi? Hệ luỵ là ngày càng xa dân, càng khó giữ. Vì thế, muốn giữ được rừng thì điều đầu tiên cần làm là phải nghĩ đến hướng mưu sinh của dân.

Sau khi nghiên cứu, bàn bạc, chúng tôi thống nhất giải pháp là vừa cứng vừa mềm. Cứng là phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an huyện, xã, bộ đội biên phòng tại địa phương để tuần tra, truy quét, phát hiện và xử lý các vụ vi phạm, thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của công ty. Mềm là tiếp xúc, vận động những người có uy tín như già làng, trưởng bản, trả công hàng tháng cho họ để họ cùng tham gia tuyên truyền với mình, đến tận nhà người dân trò chuyện, giải thích đúng sai và cả răn đe về pháp luật cho họ nghe.

Bên cạnh đó, Công ty còn phối hợp với chính quyền địa phương tạo công ăn việc làm cho người dân bản địa bằng nhiều hình thức như hợp đồng lao động, thuê lao động thời vụ bảo vệ rừng; hỗ trợ cung cấp giống cây trồng, vật nuôi và chuyển giao kỹ thuật; xây dựng các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp, góp phần ổn định cuộc sống cho họ.

Cứ như vậy, mọi thứ dần đi vào ổn định, chúng tôi kiểm soát được tình trạng phá rừng; các vụ vi phạm được phát hiện, ngăn chặn kịp thời, diện tích rừng bị phá năm sau giảm hơn so với năm trước cả về số vụ và số diện tích; mô hình trồng rừng theo hình thức nông lâm kết hợp gắn với giao khoán và liên doanh, liên kết đã phát huy hiệu quả, bước đầu thu hút sự tham gia của người dân, nhận thức của người dân về vai trò, tầm quan trọng của rừng từng bước được nâng cao...”.

Nhưng, khi rừng dần bình yên, cũng là lúc đơn vị chủ rừng nghĩ đến việc làm sao nâng cao giá trị của rừng, đó là khai thác những tiềm năng bao năm qua vẫn như “nàng công chúa còn ngủ yên” dưới tán rừng.

Một tiềm năng lớn của rừng Nam Tây Nguyên hiện chưa được khai thác, đó là phát triển du lịch sinh thái và cây dược liệu dưới tán rừng. Nam Tây Nguyên hiện có con đường QL14C mới như dải lụa tinh khôi, mềm mại giữa những vạt rừng thông khép tán, che mát những thảm cỏ hồng bên dưới, đẹp như một bức tranh. Cách đồi thông không xa là Thác Đắk G'lun, cao hơn 50m, độ dốc gần 90 độ, đổ xuống và chia thành nhiều tầng. Thác Đắk G'lun nằm trên con duối cùng tên được bao bọc bởi hơn 1.000ha rừng đặc dụng. Khung cảnh hoang sơ, hùng vĩ ở đây có thể làm say đắm bất kỳ người nào có dịp đến chiêm ngưỡng.

“Nam Tây Nguyên có quần thể 36 cây săng lẻ và 1 cây đa có tuổi đời lên đến hàng trăm năm, được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Trong đó có 1 săng lẻ có tuổi đời 600 năm, đường kính bằng 10 sải tay người lớn. Số cây này không chỉ là điểm nhấn để phát triển du lịch, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong bảo tồn, phát triển nguồn gen quý hiếm và đa dạng sinh học tại địa phương”, ông Bình cho biết.

 

Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung thuộc xã Nâm Nung, tỉnh Lâm Đồng (trước khi sáp nhập, Nâm Nung nằm trên địa bàn 3 huyện Krông Nô, Đắk Glong và Đắk Song, tỉnh Đắk Nông). Có diện tích hơn 23.000ha, nhỏ hơn một chút so với Nam Tây Nguyên, nhưng lại có những giá trị vô cùng lớn về địa chất, thuộc công viên địa chất toàn cầu UNESCO, có núi lửa hàng ngàn năm, có núi Sừng Trâu, cao 1.600m, là nóc nhà của khu vực chuyển tiếp với vùng Đông Nam Bộ. Và cũng là một “kho báu” về đa dạng sinh học với hệ động, thực vật phong phú, nhiều loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới.

Rừng Nâm Nung giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết khí hậu vùng Tây Nguyên và cả khu vực miền Đông Nam bộ. Nơi đây có 2 hệ sinh thái chủ yếu là rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh chiếm trên 90% diện tích, còn lại là rừng gỗ hỗn giao tự nhiên.

Tương tự, hệ động vật cũng phong phú với 297 loài, 29 bộ và 93 họ động vật có xương sống. Đây là nơi sinh sống của một số loài động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng nằm trong sách đỏ của Việt Nam và IUCN như voi, bò tót, voọc chà vá chân đen, báo gấm, khỉ đuôi lợn, khỉ cộc, cầy mực… và một số loài thực vật như cây sồi ba cạnh, thông ba lá, cẩm lai (trắc lai)...Ngoài ra còn có 173 loài chim, 66 loài cá, 37 loài bò sát…

Bên cạnh các giá trị đa dạng sinh học, trong rừng Nâm Nung còn có nhiều di sản địa chất có giá trị như các thác nước hùng vĩ, đá granit, đá thiên thạch tektite phản ánh lịch sử địa chất đa dạng. Đặc biệt, đây còn có công viên địa chất toàn cầu Unesco. Ngay tại khu vực lõi rừng là núi Nâm JerBri với đỉnh cao nhất 1.578m so với mực nước biển.

Khu rừng này còn là nơi diễn ra những thăng trầm lịch sử hàng trăm năm, là “mái nhà” của các thủ lĩnh N’Trang Gưh, N’Trang Lơng cùng nghĩa quân trong thời kỳ nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Sau này, nơi đây là căn cứ cách mạng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Khu bảo tồn Nâm Nung còn nơi tập trung khá nhiều đồng bào M’nông với những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo. Đó là những món ăn truyền thống độc đáo có nguyên liệu từ rừng, các vật dụng phục vụ cuộc sống cư dân địa phương. Đặc biệt là không gian văn hoá, các lễ hội truyền thống độc đáo.

Ngoài hệ sinh thái động thực vật vô cùng phong phú, Khu bảo tồn Nâm Nung còn có những điểm tham quan nổi tiếng. Đó là “đệ nhất thác Tây Nguyên” 7 tầng, còn gọi là thác Cọp, và thác Gấu. Ngoài ra còn có Khu rừng đặc dụng cảnh quan Dray Sap, diện tích hơn 1.600ha, được công nhận là thắng cảnh cấp quốc gia.

Nói về những khó khăn trong công tác bảo vệ rừng, anh Bùi Duy Giáp, Phó giám đốc Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung tâm sự: “Đặc thù chung của rừng là địa bàn rộng, hiểm trở, riêng Nâm Nung còn hiểm trở hơn, có những chốt bảo vệ cách đây 150km. Điều kiện tại các chốt vô cùng khó khăn, không có điện, nước sạch lấy từ dưới suối khá xa....vào mùa mưa, phải lội suối, leo dốc trơn trượt, rất nguy hiểm, Như chốt số 9 trên đỉnh núi chẳng hạn, muốn lên chốt này, phải qua suối sâu, nước chảy siết, mùa khô có thể qua bằng chiếc “phà” gỗ tự chế bằng 2 sợi dây cột chặt 2 đầu vào gốc cây cây, nhưng vào mùa mưa, chiếc phà này cũng bị nước nhấn chìm, nên gần như không thể qua. Chưa kể, phải leo đường dốc cao dài 5 cây số, len lỏi qua những khe đá chứ không có đường. Cho nên, anh em ở chốt này rất vất vả, có những lúc mấy tháng chỉ có mì gói ăn. Mỗi lần anh em vào là kéo dài 3 tháng, vào mùa mưa còn lâu hơn mới được về.

Nhiều khó khăn như vậy, nhưrg lực lượng bảo vệ lại mỏng nên công tác bảo vệ rừng không dễ dàng. Để cải thiện tình hình, Ban quản lý Khu bảo tồn cùng lúc thực hiện nhiều giải pháp như phối hợp với lực lượng kiểm lâm và chính quyền địa phương thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ rừng. Đẩy mạnh vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân về bảo vệ, phát triển rừng tại các thôn, xã….ký hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng với 284 hộ dân, tổng diện tích giao khoán khoảng 3.000ha. Các biện pháp này đã mang lại hiệu quả rất tốt, không chỉ hạn chế tình trạng xâm hại tài nguyên rừng, mà còn tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người dân sống gần rừng”.

Có thể nói, tiềm năng kinh tế dưới tán rừng ở Đắk Nông cũ là vô cùng lớn, nhưng bao năm nay gần như vẫn “ngủ yên” dưới tán cây.

Tôi nói “gần như” bởi cũng đã có “lác đác” những mô hình kinh tế quy mô nhỏ hình thành dưới tán rừng và đang gặt hái những thành quả. Một trong số đó là mô hình trồng nấm linh chi hữu cơ dưới tán rừng của HTX VOS Đắk Nông, xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng (trước sáp nhập là xã Đắk Búk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông).

Nơi HTX VOS Đắk Nông trồng nấm linh chi là một khu rừng có diện tích nhỏ mang tên Đắk Búk So, nhưng giá trị ở chỗ khu rừng còn nguyên vẹn, những cây cổ thụ cao vút, đứng trầm mặc trên thân hình to lớn đầy rêu phong và những dây leo chằng chịt ngang dọc. Khu rừng còn có một con thác cao hơn 20m, ngày đêm ầm ào, tung tung bọt trắng cả một vùng, đứng cách thác vài chục mét cũng cảm nhận được làn hơi nước phà lên mặt, mát lạnh, quyện vào những thân cây cổ thụ rêu phong, khiến cảnh vật càng thêm huyền ảo. Chị Mai Thị Thái, người được giao quản lý khu rừng, cũng là giám đốc HTX VOS Đắk Nông cho biết, thác Đắk Buk So là một trong những con thác đẹp nhất ở Tây Nguyên.

Nói về ý tưởng trồng nấm linh chi dưới tán rừng, chị Thái cho biết, năm 2021, sau khi nghiên cứu, tìm hiểu về thời tiết, thổ nhưỡng tại khu vực khu rừng, chị thấy ở đây rất phù hợp với cây nấm linh chi, nên đã liên hệ mua phôi nấm từ một đơn vị uy tín về thử nghiệm. Sau 4 tháng trồng, nấm bắt đầu cho thu hoạch lứa đầu tiên.

“Nấm sinh trưởng nhờ dinh dưỡng từ phần phôi gỗ, nên sau khi trồng, chỉ tưới nước chứ không cần thêm dinh dưỡng phân bón gì. Vì thế, quy trình chăm sóc khá đơn giản. Sau 4 tháng là thu hoạch đợt đầu, sau đó phôi nấm sẽ nảy mầm tiếp ngay tại vết cắt. Lần thứ 3 cũng tương tự, nhưng những lần thu sau, phôi nấm nảy mần càng ít đi nên lượng nấm thu được cũng giảm. Mỗi phôi nấm trồng 1 lần có thể thu hoạch cả năm”, chị Thái nói.

Trước câu hỏi “chất lượng nấm có tốt không?”, chị Thái cho biết, chị đã mang nấm linh chi trồng tại mô hình đi kiểm nghiệm, kết quả cho thấy, dược tính cao hơn cả nấm linh chi nhập từ nước ngoài về. Về giá trị, chị Thái cho biết: “Cứ 1m2 đất trồng 16 phôi nấm, bình quân có thể thu khoảng 2kg nấm tươi, phơi khô còn 1kg, giá nấm khô từ 1,5 đến 2 triệu đồng, tuỳ hình thức”.

Tuy nhiên, những mô hình kinh tế dưới tán rừng như HTX VOS Đắk Nông là không nhiều. Trong khi nhiều khu rừng tiềm năng lớn còn bỏ ngỏ. Rừng phòng hộ Thác Mơ, cùng nằm trên xã Tuy Ðức, tỉnh Lâm Đồng, cách rừng Nam Tây Nguyên không xa, là một trong số những khu rừng có tiềm năng phát triển kinh tế lớn, nhưng còn “nằm im chờ người”.

Theo chân anh Nguyễn Xuân Khương, Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ Thác Mơ vào rừng, tôi vừa khoan khoái thưởng thức làn không khí mát rượi nhờ những tán cây rừng cổ thụ xoè rộng, che kín bầu trời, vừa nhe anh tâm sự. “khu rừng này không đơn thuần là rừng, vì ngoài chức năng là rừng như nhiều khu rừng khác, RPH Thác Mơ còn có những chức năng rất quan trọng, đó là duy trì hệ sinh thái và chức năng phòng hộ đầu nguồn cho các con sông, suối lớn của khu vực sông Đồng Nai, góp phần quan trọng bảo vệ đầu nguồn sông Bé, nơi có công trình thuỷ điện Thác Mơ và VQG Bù Gia Mập. Đặc biệt, đây còn là rừng phòng hộ vùng biên giới Việt Nam - Campuchia. Trên lâm phần của đơn vị có nhiều cây gỗ quý, hiếm. Hiện đã có nhiều cây cổ thụ trong rừng được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản. Trong số này, có cụ cây giáng hương 437 tuổi”, anh Khương cho biết.

Nói về tiềm năng phát triển trồng cây dược liệu dướ tán rừng, Giám đốc Nguyễn Xuân Khương cho biết, đơn vị có nhiều lợi thế trong việc liên kết trồng cây dược liệu dưới tán rừng, vì đường giao thông thuận tiện, trạng thái rừng là thường xanh trung bình, bảo đảm cho việc phát triển của các loài dược liệu.

“Rừng Thác Mơ có nguồn tài nguyên cây dược liệu tự nhiên rất phong phú, như giảo cổ lam, nhân trần, thiên niên kiện, sâm cau, sâm alipas...đây mới chỉ là phát hiện trong những chuyến đi tuần tra rừng chứ chưa phải khảo sát, nghiên cứu sâu. Để phát triển cây dược liệu hiệu quả, bền vững cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. BQL RPH Thác Mơ đã được cấp phép thực hiện mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng với tổng diện tích dự kiến 262ha, theo hình thức liên kết với các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực thực hiện”, anh Khương nói.

Ngoài phát triển cây dược liệu dưới tán rừng, Thác Mơ còn có nguồn tài nguyên đặc trưng lớn trên lâm phần để phát triển du lịch như rừng nguyên sinh, nhiều con suối bắt nguồn từ nước bạn Campuchia như Girh, Đắk Ka, Đắk Bô, trên các suối này đều có những thác, ghềnh, rất hấp dẫn cho du khách thích trải nghiệm.

Còn tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung, anh Bùi Duy Giáp, Phó giám đốc khu bảo tồn cho biết, đơn vị đã ký hợp đồng cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí với 2 nhà đầu tư trên diện tích khoảng 743ha. Dự án sẽ góp phần phát huy giá trị của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, quảng bá tài nguyên; nâng cao nhận thức và hành động của cộng đồng địa phương đối với các tài sản vô giá về du lịch cảnh quan - văn hóa – lịch sử, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân địa phương, từng bước xóa đói giảm nghèo và hướng tới phát triển bền vững; tạo ra nguồn thu bổ sung cho công tác bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học cho Nam Nung.

“Khai thác bền vững các tiềm năng tự nhiên về cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hóa địa phương, di tích lịch sử để phát triển du lịch sinh thái sẽ góp phần quan trọng cho công tác bảo tồn thiên nhiên, góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng cư dân địa phương và du khách về các giá trị thiên nhiên, văn hóa, lịch sử và nhân văn, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường”, anh Giáp nói.

Khương Hồng Thủy
Trọng Toàn
Khương Hồng Thủy
Khương Hồng Thủy - Minh Sáng
Xem thêm