Trong bối cảnh ấy, nông nghiệp sinh thái xuất hiện như một hướng chuyển đổi có cơ sở khoa học lẫn thực tiễn. TS Éliane Ubalijoro, Giám đốc điều hành CIFOR-ICRAF kiêm Tổng Giám đốc ICRAF nhìn nhận: “Chúng ta đều biết hệ thống lương thực- thực phẩm (LTTP) đang bị phá vỡ và một trong những giải pháp là nông nghiệp sinh thái”.
Bà gọi đó là tầm nhìn về một nền nông nghiệp “nuôi dưỡng cả đất đai lẫn con người”, với sức khỏe và thịnh vượng cho thế hệ sau như chuẩn tham chiếu, thay vì lời hứa hẹn mơ hồ.

TS Éliane Ubalijoro, Giám đốc điều hành CIFOR-ICRAF kiêm Tổng Giám đốc ICRAF. Ảnh: ICRAF Vietnam.
Phục hồi sinh thái, cải thiện dinh dưỡng, nâng cao sinh kế
Điểm cộng đầu tiên của nông nghiệp sinh thái nằm ngay dưới chân nông dân - đất đai. Khi hệ canh tác được thiết kế theo quy luật sinh thái, độ phì được bồi hoàn, hệ vi sinh vật sống khỏe, kết cấu đất cải thiện, khả năng giữ nước tăng lên. Đất càng khỏe, rủi ro mất mùa do thời tiết khắc nghiệt càng giảm. Đây không còn là yếu tố kỹ thuật, mà là nền tảng chống chịu trước biến đổi khí hậu, nơi mỗi mùa vụ không còn “đặt cược” vào may rủi.
Trên bề mặt đồng ruộng, sự đa dạng cây trồng và thực hành nông học thích ứng giúp giảm áp lực sâu bệnh, qua đó tối ưu nguyên liệu đầu vào. Cán cân chi phí - lợi ích vì thế thay đổi. Chi phí biến đổi giảm, lợi nhuận ròng nâng lên. Với nông hộ nhỏ, việc cải thiện sản lượng và thu nhập là vô cùng quan trọng, nhiều khi có ý nghĩa sống còn và nông nghiệp sinh thái là một giải pháp toàn diện để giúp họ làm việc này.
Với người tiêu dùng, nông nghiệp sinh thái mở rộng cơ hội tiếp cận thực phẩm giàu dinh dưỡng, an toàn hơn, góp phần hạn chế nhóm bệnh không lây nhiễm đang tăng nhanh toàn cầu. Khi nguồn cung mùa vụ được quản trị tốt, chuỗi giá trị địa phương tổ chức bài bản, khẩu phần ăn đa dạng hơn, khoảng trống dinh dưỡng thu hẹp lại. Đây là lợi ích y tế công cộng có thể đo đếm bằng chi phí điều trị được tiết giảm trong dài hạn - một dạng “lợi tức” ít khi được tính vào giá nông sản nhưng hiện hữu ở cấp quốc gia.

Cuộc họp thường niên của Diễn đàn Đối tác Chuyển đổi Nông nghiệp Sinh thái (Agroecology TPP) tổ chức tại Hà Nội từ 31/3 đến 4/4. Ảnh: ICRAF Vietnam.
Triển vọng kinh tế không dừng ở cổng trang trại. Nông nghiệp sinh thái khuyến khích đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, từ thực phẩm tươi đến chế biến, từ vật liệu hữu cơ đến du lịch trải nghiệm. Mỗi mắt xích mới tạo thêm việc làm trên mỗi hecta, làm dày nền kinh tế địa phương. Khi cảnh quan được duy trì, du lịch sinh thái và giáo dục trải nghiệm có “sân khấu” để phát triển, tạo thêm nguồn thu ngoài nông vụ.
Tầng chính sách cũng hưởng lợi khi nông nghiệp sinh thái cho phép tích hợp mục tiêu phát triển nông thôn với bảo tồn tài nguyên, ứng phó khí hậu trên cùng một thiết kế. Khi các thực hành lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, chi phí ngoại lai (ô nhiễm nước, suy thoái đất, mất đa dạng sinh học) giảm, qua đó hạ gánh nặng ngân sách môi trường. Nông nghiệp sinh thái không tìm cách “cứu” môi trường sau sản xuất, mà sản xuất sao cho môi trường luôn “khỏe mạnh”.
Nông nghiệp sinh thái còn tạo không gian dung hợp kiến thức bản địa và khoa học hiện đại. Những kinh nghiệm của nông dân về mùa gió, dòng chảy, chu kỳ sâu bệnh… khi đối thoại với dữ liệu thực nghiệm và công cụ phân tích sẽ thành bộ giải pháp linh hoạt theo bối cảnh. Đây là nơi nông dân không còn là “đối tượng thụ hưởng”, mà trở thành đồng tác giả của đổi mới.

Nông nghiệp sinh thái được xem là lời giải cho nhiều thách thức mang tính toàn cầu hiện nay. Ảnh: ICRAF Vietnam.
Đưa tri thức thành những ‘cây cầu’ chính sách
Triển vọng là có thật, nhưng để đạt được nông nghiệp sinh thái, quy trình canh tác phải từng bước nâng cao năng lực vận hành. GS Fergus Sinclair, đồng chủ trì Diễn đàn Đối tác chuyển đổi Nông nghiệp sinh thái (Agroecology TPP) đặt câu hỏi: “Người nông dân sẽ không đọc các bài báo khoa học, vậy làm thế nào để thông tin đến với họ?”. Khi tri thức chỉ nằm trong sách, ruộng đồng không thể đổi màu.
Khoảng cách ấy cần được nối bằng những “cây cầu”. Đầu tiên là đào tạo. Chương trình nông học hiện nặng về mô hình thâm canh, trong khi nội dung nông nghiệp sinh thái còn rời rạc. Các khóa học “nông dân dạy nông dân”, học qua thực nghiệm, cần được đưa vào quỹ hỗ trợ công - tư. Khi người học thấy kết quả ngay trên luống cây, sức thuyết phục sẽ mạnh hơn mọi slide trình chiếu.
Cây cầu thứ hai là truyền thông. TS Pierre Ferrand (FAO) nhấn mạnh: “Muốn có thay đổi đột phá, thông điệp phải được thiết kế riêng cho từng đối tượng”. Với nhà quản lý, cần bản đồ dữ liệu, phân tích chi phí - lợi ích. Với nông dân, cần hướng dẫn ngắn gọn, thử nghiệm nhỏ. Với người tiêu dùng, cần nhãn tin cậy và truy xuất nguồn gốc dễ hiểu.
Không thể bỏ qua nghiên cứu, bởi nông nghiệp sinh thái là “mê cung” đa biến gồm sinh học đất, khí hậu vi mô, hành vi thị trường, thể chế địa phương… Nếu tách rời sẽ cho kết quả đẹp trên giấy nhưng rời rạc ngoài đồng. Do đó, nghiên cứu phải liên ngành từ đầu, nơi mô hình sinh thái đi cùng phân tích kinh tế - thể chế. Tuy nhiên, những nghiên cứu này thường thiếu nguồn lực dài hạn, trong khi nông nghiệp sinh thái cần nhiều năm mới thấy tác động. “Nông dân không nên chỉ tham gia mà còn phải quyết định những gì được nghiên cứu”, TS Matthias Geck (CIFOR-ICRAF tại Nairobi, Điều phối viên Agroecology TPP) đề xuất, để kết quả gắn chặt thực tế.
Chiếc cầu thứ tư là chính sách, tài chính. Nếu không có tín dụng xanh, bảo hiểm khí hậu, ưu đãi thuế cho vật tư hữu cơ, nông dân khó đổi mô hình khi rủi ro đè nặng. Đồng thời, tiêu chuẩn và hệ thống giám sát phải đủ chặt để ghi nhận đúng “giá trị xanh”, tránh tình trạng “xanh trên giấy”. Chính sách tốt phải nhìn vào dòng tiền: Ai đầu tư, ai chịu rủi ro, ai hưởng lợi và phân bổ có tạo động lực hay không.

Trong nông nghiệp sinh thái, tri thức bản địa về chăn nuôi, trồng trọt luôn được khuyến khích. Ảnh: ICRAF Vietnam.
Ở nút giao 4 cây cầu, Agroecology TPP cho thấy cách tổ chức đáng chú ý. Diễn đàn tạo “không gian đồng sáng tạo” để nhà khoa học, nông dân, cơ quan quản lý cùng soạn “kịch bản” chung. TS Éliane Ubalijoro mô tả mục tiêu, là thu hẹp khoảng cách giữa tri thức với thực hành, đặt công bằng làm trục, nơi mọi tiếng nói đều được lắng nghe. Kịch bản này hướng đến thí điểm có thể nhân rộng, với chỉ số rõ ràng, nguồn lực theo chu kỳ nhiều năm thay vì “một mùa là hết vốn”.
Vẫn còn đó những thách thức, như thói quen làm nông theo quán tính. Nông nghiệp truyền thống đã tạo ra bộ kỹ năng và mạng lưới vật tư ăn khớp, nên việc chuyển đổi giống như thay cả “hệ điều hành” chứ không chỉ thêm một ứng dụng. Không thể kỳ vọng vài khóa tập huấn đủ sức “bẻ lái” mà cần lộ trình. Chọn khâu có lợi thế nhất, đặt mục tiêu trung gian dễ thấy, đo lường minh bạch để tạo niềm tin. Khi tín hiệu tích cực xuất hiện, “hiệu ứng lân cận” sẽ kéo hộ khác nhập cuộc.
Một thách thức nữa là bằng chứng. Lợi ích nông nghiệp sinh thái phân tán theo thời gian và không gian, khó quy đổi ngay thành tiền, nên cần hệ thống chỉ số đủ tinh để đo lường từ những hệ số liên quan chặt chẽ tới sinh kế của nông hộ nhỏ như chi phí kinh tế hộ gia đình đến những chỉ số vĩ mô hơn như đa dạng sinh học, carbon trong đất... Cuối cùng, quyết định phải gần người thực thi. Cấp cơ sở cần quyền thử nghiệm - mở rộng - điều chỉnh, địa phương giải toán cụ thể theo từng mùa vụ, còn cấp quốc gia tạo hành lang tiêu chuẩn, tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp.
Một hệ thống LTTP bền vững không hình thành nhờ một quyết định, mà bằng chuỗi quyết định nhất quán. Nông nghiệp sinh thái cho thấy lộ trình khả thi: phục hồi đất, tăng khả năng chống chịu, nâng chất lượng dinh dưỡng, củng cố sinh kế địa phương. Và chỉ khi tri thức rời khỏi giá sách, ngân sách đủ dài hơi và quyền lựa chọn của nông dân được đặt ở trung tâm, những cánh đồng mới thực sự đổi màu.