Từ mã số đến niềm tin thị trường
Sáng 22/5, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) công bố thông tin mới nhất về hoạt động cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc.
Theo đó, trong đợt xét duyệt ngày 21/5, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đã phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói, toàn bộ đều là mã mới. Như vậy, tính đến hiện tại, Việt Nam đã có 1.396 mã vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói được GACC phê duyệt.

Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt thông tin về việc Trung Quốc vừa cấp mới gần 1.000 mã sầu riêng. Ảnh: Bảo Thắng.
Thông tin này không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật, mà còn thể hiện bước tiến thực chất trong chuỗi nỗ lực chuẩn hóa sản xuất và nâng cao năng lực quản lý chất lượng nông sản của Việt Nam. Theo Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt, quá trình hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam và Trung Quốc thời gian qua đã cho thấy sự tin cậy ngày càng lớn từ thị trường nhập khẩu đối với năng lực giám sát, truy xuất và đảm bảo an toàn thực phẩm của phía Việt Nam.
“Việc phê duyệt gần 1.000 mã số mới là kết quả của một chuỗi chuyển động hệ thống, từ người nông dân, doanh nghiệp, đến cơ quan quản lý”, ông Đạt khẳng định.
Không chỉ mang ý nghĩa mở rộng quy mô xuất khẩu, động thái từ GACC được xem là tín hiệu tích cực cho mùa vụ sầu riêng đang bước vào cao điểm, thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 11. Với hệ thống mã số ngày càng mở rộng, doanh nghiệp và địa phương có thêm công cụ để điều tiết kế hoạch thu hoạch, xuất khẩu, tránh tình trạng dồn ứ tại cửa khẩu và giảm rủi ro về giá.
Đồng thời, việc cấp mã mở ra điều kiện thuận lợi để thực hiện các hợp đồng đã ký giữa người dân và doanh nghiệp, hạn chế tranh mua, tranh bán. “Từ nay, việc rải vụ không chỉ là kỹ thuật canh tác, mà còn là chiến lược thị trường”, ông Đạt nhấn mạnh.
Tuy nhiên, cơ hội cũng đi kèm với thách thức. Được chấp thuận mã số chỉ là điều kiện đầu vào. Muốn trụ vững, người trồng sầu riêng phải tuân thủ chặt chẽ quy trình canh tác, xử lý sau thu hoạch và đóng gói theo đúng những gì đã cam kết. Điều đó đòi hỏi cả hệ thống, từ HTX, doanh nghiệp, đến từng hộ nông dân, phải nâng cao ý thức và tự giác làm đúng.
“Người tiêu dùng Trung Quốc rất ưa chuộng sầu riêng Việt Nam, nhưng cũng rất khắt khe. Cấp mã rồi không có nghĩa là yên tâm, mà càng phải siết kỷ luật, giữ uy tín”, người đứng đầu Cục nhấn mạnh.
Nâng cao tư duy canh tác có trách nhiệm
Từ đầu năm 2025, việc kiểm tra sầu riêng tại các cửa khẩu Trung Quốc được tăng cường. Không ít lô hàng bị kiểm tra bổ sung, thậm chí có lô bị trả lại. Theo ông Đạt, điều này không bất thường mà hoàn toàn nằm trong quy trình kiểm soát chất lượng theo Nghị định thư giữa hai nước.
Cụ thể, để được xuất khẩu chính ngạch, nông sản phải tuân thủ 3 nguyên tắc: kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Trong trường hợp phát hiện tồn dư kim loại nặng hoặc bất kỳ yếu tố nào vượt ngưỡng cho phép, phía nhập khẩu sẽ yêu cầu truy xuất nguồn gốc để làm rõ nguyên nhân và yêu cầu biện pháp khắc phục. Trong thời gian chờ xác minh, các nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp kiểm tra tăng cường, như xét nghiệm lô hàng trước khi thông quan.
“Những lô hàng bị trả lại vừa qua đều không đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu, và bị phía Trung Quốc từ chối là đúng quy định. Ngay sau đó, ngành đã chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ tại nội địa, không để những lô hàng như vậy quay lại thị trường trong nước mà không qua kiểm định lại”, ông Đạt cho biết.
Từ câu chuyện mã số vùng trồng, có thể thấy rõ một yêu cầu đang định hình lại sản xuất nông sản xuất khẩu: Tư duy canh tác gắn với trách nhiệm thị trường. Việc được Trung Quốc cấp mã chỉ là bước đầu, quan trọng hơn là khả năng duy trì và phát triển bền vững những mã số đó.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã khuyến cáo các doanh nghiệp, HTX tiếp tục duy trì quy trình sản xuất, đóng gói và kiểm dịch một cách nghiêm ngặt, đúng như hồ sơ đã đăng ký với phía bạn. Điều này không chỉ giúp giữ thị trường, mà còn là cơ sở để mở rộng sang các thị trường khó tính khác.
Một khi người trồng, doanh nghiệp và chính quyền địa phương coi mỗi mã số là một “giấy thông hành” danh giá, được bảo vệ và sử dụng bằng trách nhiệm cao nhất, thì cánh cửa thị trường sẽ không chỉ mở một lần, mà mở lâu dài. Và khi ấy, không chỉ sầu riêng, mà cả ngành nông sản Việt sẽ bước vào một giai đoạn mới, nơi chất lượng, chuẩn hóa và uy tín là chìa khóa dẫn dắt mọi cánh cửa thị trường.

Sầu riêng tại Việt Nam đang vào chính vụ. Ảnh: TL.
Xử lý từ gốc rễ vấn đề tồn dư
Liên quan đến những thông tin về tồn dư kim loại nặng trong sầu riêng xuất khẩu, ông Huỳnh Tấn Đạt cho biết, ngay khi có cảnh báo từ phía nước nhập khẩu, ngành Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã lập tức cử nhiều đoàn kiểm tra tại các vùng trồng trọng điểm. Kết quả ban đầu cho thấy, nguy cơ cao nhất tập trung ở một số địa phương vùng Tây Nam bộ.
Theo phân tích sơ bộ, có 2 nguyên nhân chính dẫn tới tồn dư Cadimi trên sầu riêng vượt ngưỡng. Thứ nhất, một số vùng có đặc điểm thổ nhưỡng chứa sẵn Cadimi ở mức cao hơn trung bình, đi kèm với độ pH đất thấp làm giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng lành mạnh, khiến cây hút theo kim loại nặng. Thứ hai, nhiều vùng trồng mới, nơi người dân còn thiếu kinh nghiệm, đang lạm dụng phân bón hóa học với liều lượng cao gấp nhiều lần khuyến cáo, vô tình làm gia tăng nguy cơ tồn dư.
“Chúng tôi đã khuyến cáo rất rõ: tuyệt đối không sử dụng phân bón chứa Cadimi. Cần thay đổi cách nghĩ: đất là ‘lá phổi’ của cây, nếu đất không sạch, trái cũng khó lành”, ông Đạt nhấn mạnh.
Với chất Vàng O, một loại phẩm màu công nghiệp bị cấm sử dụng trong thực phẩm, ông Đạt khẳng định, sau khi nhận thông báo cảnh báo, các đoàn kiểm tra của ngành đã rà soát tại các vùng trồng sầu riêng bị nghi ngờ và không ghi nhận việc sử dụng chất này trong quy trình canh tác. Do đó, nếu có tồn dư, khả năng cao là phát sinh ở các khâu trung gian, ngoài phạm vi quản lý của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.
Tuy nhiên, Cục không né tránh. Để làm rõ, đơn vị đã chủ động gửi công văn đề nghị phối hợp với các cơ quan chức năng khác nhằm điều tra toàn diện, từ đó bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cũng như uy tín sầu riêng Việt trên thị trường quốc tế. “Nếu không minh bạch và xử lý đến cùng, một lô hàng sai có thể làm mất đi cả thị trường”, ông Đạt nói.
Trả lời câu hỏi về năng lực kiểm nghiệm, ông Đạt cho biết hiện cả nước có 12 phòng thử nghiệm Cadimi và 8 phòng thử nghiệm Vàng O, đủ năng lực kiểm tra trên diện rộng. Tuy nhiên, việc phòng thử nghiệm đặt ở đâu không quan trọng bằng việc tổ chức ra sao để phục vụ tốt nhất cho doanh nghiệp. “Một mùa vụ trái cây có thể lên tới hàng triệu tấn. Câu hỏi không phải là ‘kiểm ở đâu’ mà là ‘kiểm thế nào để nhanh, chuẩn và không làm doanh nghiệp lỡ chuyến thị trường”, ông Đạt bày tỏ.
Ông cũng lưu ý rằng để xây dựng một phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế không chỉ cần chi phí, mà còn đòi hỏi năng lực con người và thời gian tích lũy. Chính vì vậy, giải pháp hiện tại là vận hành hiệu quả các phòng đang có, đồng thời tính toán phân bố hợp lý dựa trên nhu cầu sản xuất và xuất khẩu tại từng vùng.
Cần một hệ sinh thái chuẩn mực, không chỉ vài nông dân giỏi
Thừa nhận thực trạng còn nhiều vùng trồng mới mang tính tự phát, ông Đạt cho biết, đây là thách thức lớn đối với ngành trong việc đồng bộ hóa quy trình sản xuất. Sầu riêng là mặt hàng có giá trị kinh tế rất cao, nhưng cũng đòi hỏi quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt và ổn định. “Không thể làm theo kiểu thấy người ta trồng được là mình trồng theo. Cây giống không đảm bảo, đất không hợp, phân không chuẩn thì làm sao có trái đạt chuẩn xuất khẩu”, lãnh đạo Cục trăn trở.
Vì vậy, Cục đang xây dựng một bộ hướng dẫn quy chuẩn cụ thể, đặc biệt dành cho các vùng trồng mới. Ngoài ra, một bộ bản đồ dinh dưỡng đất trồng sầu riêng toàn quốc cũng đang được thiết kế, nhằm hướng dẫn người dân xác định đúng loại đất, tránh lãng phí và sai sót từ gốc. Đồng thời, dữ liệu từ bản đồ này sẽ tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng, giúp việc quản lý, truy xuất nguồn gốc thuận tiện và minh bạch hơn.
Song song, Cục cũng đề xuất một văn bản hướng dẫn quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói cho các địa phương. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là công cụ để các bên cùng nhìn về một tiêu chuẩn chung, từ người nông dân đến cơ quan quản lý, đảm bảo tính minh bạch và thống nhất theo thông lệ quốc tế.
Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt nhấn mạnh, việc kiểm tra, giám sát không thể dừng ở khâu cuối. Toàn ngành đang dần chuyển hướng kiểm soát từ “cuối chuỗi” về “đầu nguồn”. Trong bối cảnh trái cây tươi có áp lực thời gian rất lớn vì tính mùa vụ và hạn sử dụng, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy và Thứ trưởng Hoàng Trung đã chỉ đạo tăng cường lực lượng kiểm dịch tại cửa khẩu và các vùng trồng trọng điểm.
Không dừng lại ở “ứng trực giải quyết sự cố”, ngành đang tính tới phương án cử cán bộ hỗ trợ trực tiếp tại vùng sản xuất, một hình thức kiểm dịch “đi trước một bước”, giúp giải quyết ngay từ nguồn và rút ngắn đáng kể thời gian thông quan.
Từ những vấn đề nóng như tồn dư kim loại, quy trình kiểm soát và phòng thử nghiệm, có thể thấy một điều rõ ràng: muốn giữ thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường lớn và khó tính như Trung Quốc, Việt Nam không thể làm ăn theo kiểu “mỗi nơi một kiểu, mỗi vụ một cách”. Cần một hệ thống tiêu chuẩn hóa xuyên suốt, đi từ đất, cây, phân bón, đến sổ tay ghi chép và truy xuất mã số.
Và hơn tất cả, cần một tư duy mới: Xuất khẩu chính ngạch không chỉ là việc của doanh nghiệp, mà là hành trình của từng người nông dân, từng HTX, từng cán bộ kỹ thuật. Chỉ khi mọi mắt xích đều ý thức được mình đang giữ một phần của “giấy thông hành” mang tên niềm tin, thì trái sầu riêng Việt mới thực sự đủ sức vươn xa. Không chỉ một mùa, mà là bền vững qua nhiều năm.

Nâng cao nhận thức cho toàn chuỗi giá trị là giải pháp để ngành sầu riêng bền vững. Ảnh: TL.
Từ mã số đến chất lượng: Gắn trách nhiệm với từng mắt xích
Khép lại buổi thông tin báo chí sáng 22/5, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật dành nhiều thời gian nhấn mạnh loạt khuyến nghị mang tính then chốt dành cho địa phương, doanh nghiệp và người dân. Trong đó, một nguyên tắc xuyên suốt được nhắc lại. Đó là, mọi chủ thể tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu sầu riêng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định đã cam kết trong Nghị định thư với phía Trung Quốc, đặc biệt là 3 trụ cột: an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và minh bạch quy trình sản xuất.
“Nói đến xuất khẩu chính ngạch, là nói đến sự đồng bộ. Một lô hàng xuất khẩu không chỉ mang danh doanh nghiệp, mà còn mang danh người trồng, vùng trồng và cả uy tín quốc gia”, ông Đạt nhấn mạnh.
Để đảm bảo chất lượng đầu vào, nhất là kiểm soát tồn dư kim loại nặng, Cục đã đưa ra lộ trình kiểm tra rõ ràng, gồm 4 bước:
-
100% vật tư nông nghiệp phải được kiểm nghiệm theo đúng chỉ tiêu kỹ thuật trong hồ sơ đăng ký lưu hành.
-
Doanh nghiệp sản xuất và phân phối phân bón phải kiểm tra chặt nhãn mác, hàm lượng và chất lượng thực tế, tránh gian lận thương mại.
-
Phân bón sau kiểm nghiệm phải công bố hợp quy, công khai cho người sử dụng.
-
Lực lượng thanh tra, kiểm tra địa phương phải vào cuộc từ đầu, chứ không đợi đến khi xảy ra sự cố mới “điều tra hậu kiểm”.
Mỗi bước là một lớp chắn, nhưng phải được vận hành liên kết, không rời rạc, để hình thành một “vành đai kiểm soát” quanh cây trồng, ngay từ khi còn là nắm đất.
Không chỉ siết quản lý vật tư, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đang triển khai loạt mô hình cải tạo đất gắn với thực tiễn từng vùng. Đây là hướng đi mang tính bền vững, nhằm xử lý tận gốc nguy cơ tích tụ kim loại nặng trong đất và cây.
Theo ông Đạt, 3 nhóm giải pháp đang được áp dụng thử nghiệm tại bảy mô hình tiêu biểu, gồm:
-
Sử dụng phân bón chứa biochar (than sinh học) giúp hấp thu và khóa giữ các kim loại nặng trong đất.
-
Áp dụng phân bón cải tạo đất, gia tăng độ pH, giúp rễ cây hấp thu dưỡng chất lành mạnh, giảm nguy cơ kéo theo kim loại độc.
-
Luân canh hoặc trồng xen cây thân ngầm, các loại cây có khả năng hấp thu kim loại nặng, sau đó được ủ thành phân hữu cơ, vừa cải tạo đất vừa tiết kiệm chi phí.
Đây không chỉ là kỹ thuật, mà còn là lời nhắc nhở: muốn xuất khẩu lâu dài, phải bắt đầu từ cách nghĩ, không thể chỉ trông vào “một mùa được giá”.
Một trong những điểm nhấn của thông điệp lần này chính là trách nhiệm của chủ sở hữu mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Ông Đạt khẳng định: “Mỗi mã số là một tài sản. Nếu không coi nó là tài sản cần bảo vệ, sẽ có ngày mất cả thương hiệu”.
Cục khuyến cáo các địa phương, doanh nghiệp, HTX phải đầu tư cho việc ghi chép đầy đủ hồ sơ sản xuất, duy trì tính nhất quán giữa thực tế và hồ sơ đã đăng ký. Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng một bộ quy chuẩn canh tác cho từng vùng sinh thái, phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc với các tiêu chuẩn ngày càng siết chặt.
Cuối cùng, ông Đạt nhấn mạnh: Không thể một ngành, một địa phương hay một doanh nghiệp đơn lẻ đảm đương sứ mệnh nâng cao chất lượng sầu riêng Việt. Tất cả các bên, từ người trồng, nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp xuất khẩu, đều phải cùng “đứng chung một chuỗi giá trị”.
Nếu làm tốt, đạt chuẩn, nước nhập khẩu sẽ có cơ sở để giảm tần suất kiểm tra. Khi đó, không chỉ tiết kiệm chi phí, mà doanh nghiệp còn gia tăng sức cạnh tranh, tăng tốc độ vào thị trường, tránh dồn ứ, tắc nghẽn ở cửa khẩu.
Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt bày tỏ kỳ vọng việc gần 1.000 mã số mới được GACC phê duyệt sẽ không chỉ là dấu ấn về lượng, mà còn là đòn bẩy để ngành sầu riêng Việt Nam tái cơ cấu theo chiều sâu, từ cách nghĩ đến cách làm, từ cây giống đến mã số, từ cánh đồng đến thị trường. “Chúng ta đang đứng trước cơ hội chưa từng có. Nhưng để đi xa, cần một chiến lược dài hơi, nơi chất lượng không là khẩu hiệu, mà là nguyên lý sống còn”, ông Huỳnh Tấn Đạt nhấn mạnh