Nghề nông Quảng Ngãi qua ca dao, dân ca: [Bài 1] Ai ơi chớ phụ nghề nông

Lê Hồng Khánh - Thứ Sáu, 05/04/2024 , 11:48 (GMT+7)

'Dĩ nông vi bản'- nông nghiệp giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế của địa phương, với sự đóng góp công sức của người nông dân qua nhiều thế hệ.

Ai ơi chớ phụ nghề nông

Đồng cao ruộng thấp ra công cấy cày

Quảng Ngãi là một tỉnh nằm trong vùng duyên hải Nam Trung bộ, địa hình không bằng phẳng, bị chia cắt bởi những gò, đồi, các nhánh núi đâm ngang ra biển, độ dốc tương đối lớn, nghiêng từ tây sang đông. Các con sông ở đây đều phát nguyên từ vùng núi và cao nguyên phía tây, có lưu lượng lớn về mùa mưa, nhưng lại trở nên khô kiệt vào mùa nắng hạn. Những dải đồng bằng phù sa sông chạy song song với những đồng bằng hẹp đất bạc màu nằm dưới chân các dãy đồi thấp là tài nguyên chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp.

Cánh đồng lúa Cà Ty (xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh).

Chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa của khu vực duyên hải miền Trung, hằng năm, có từ hai đến ba cơn bão đổ bộ trực tiếp và nhiều đợt áp thấp nhiệt đới kéo theo mưa lớn, gây thiệt hại nặng cho sản xuất nông nghiệp.

Tuy nhiên, với đức tính cần cù, chịu khó, sáng tạo, người nông dân Quảng Ngãi đã biết khắc phục những bất lợi của thiên nhiên, chăm lo cấy cày, trồng trọt, đem lại cái ăn cái mặc, nuôi sống gia đình. “Dĩ nông vi bản”, nông nghiệp giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế của địa phương, với sự đóng góp công sức của người nông dân qua nhiều thế hệ:

Ai ơi chớ phụ nghề nông

Đồng cao ruộng thấp ra công cấy cày

Chân bùn tay lấm càng hay

Bây giờ vất vả, có ngày phong lưu.[1]

Người Việt di cư vào Quảng Ngãi sinh sống, lập nghiệp, đem kỹ thuật nông nghiệp từ Bắc bộ và Bắc Trung bộ áp dụng ở vùng đất mới, đồng thời tiếp thu, kế thừa một số ưu điểm trong kỹ thuật canh tác của người Chăm. Một đặc thù rất rõ của nông nghiệp Quảng Ngãi trong lịch sử là gắn liền với quá trình di dân, khai khẩn đất hoang và xây dựng những công trình thuỷ lợi đặc sắc, mà nổi bật là những guồng xe nước trên sông Vệ, sông Trà Khúc.

Sông Trà Khúc.

Đầu thế kỷ XV, thời nhà Hồ, sau khi có đất Cổ Lũy động (Quảng Ngãi), nhà nước phong kiến đã ra lệnh đưa dân vào khai khẩn, cấp trâu bò để họ cấy cày. Từ khi vua Lê Thánh Tông thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) đến thời các chúa Nguyễn, cư dân Việt tiếp tục di cư vào lập làng, khẩn đất.

Tuy là ngành sản xuất chính, nhưng do điều kiện về khí hậu, thời tiết, địa hình, kể cả điều kiện kỹ thuật thô sơ, nên sản xuất nông nghiệp ở Quảng Ngãi kéo dài rất lâu trong tình trạng chậm phát triển. Để có thể sinh tồn, người dân Quảng Ngãi đã phải lao động cực nhọc và chịu đựng cảnh thiếu thốn nhiều bề.

Trừ những trường hợp bất khả kháng như lụt bão, hạn hán, chẳng khi nào người nông dân chịu cho đất nghỉ. Quanh năm, suốt tháng, luân canh, xen canh, hết lúa đến khoai, hết khoai đến mía, hết mía đến bắp...

Do địa hình đồng bằng, gò đồi xen kẽ nên nhiều khi trên cùng một vùng mà nơi này gặt lúa, nơi kia cày ruộng, đằng trước phạt mía, đằng sau cuốc đất. Nhà nông chăm lo trồng tỉa nhưng vì phần lớn đất đai kém độ phì nên hàng năm thu hoạch không được bao nhiêu, thường dùng khoai, đậu ghế độn thêm vào cơm gạo mới đủ ăn.

Gặt về đạp lúa phơi rơm

Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày

Sản phẩm chính của nông nghiệp Quảng Ngãi trong thời kỳ này là lúa, mía và các loại cây trồng khác như: mì, khoai lang, đậu phụng, dâu tằm...

Về thời vụ gieo trồng, người xưa đã biết dựa vào nông lịch để trồng các loại cây nông nghiệp trên từng vùng đất cao, đất thấp nên 4 mùa đều có gieo trồng, người làm nông ít khi rảnh rỗi.

Tháng Giêng thì lúa xanh già

Tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng

Tháng tư cuốc đất trồng lang

Tháng năm cày cuốc tiếng nàng hò lơ

Tháng sáu làm cỏ dọn bờ

Tháng bảy trổ cờ, tháng tám chín thơm

Gặt về đạp lúa phơi rơm

Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày

Lúa khô giê sạch cất ngay

Chỗ cao ta để phòng ngày nước dâng

Mùa đông mưa bão nhiều lần

Nàng xay, chàng giã cùng ngân tiếng hò

Tháng mười cày cấy mưa to

Trông trời, trông đất cầu cho được mùa.

Ruộng trồng lúa thì có ruộng 1 vụ và ruộng 2 vụ. Các giống lúa trong thời kỳ này là ba trăng, trì trì, tàu núp, chiêm ngự, tám tháng (bát nguyệt)… Đây là những giống lúa địa phương có từ xa xưa, thích hợp với điều kiện tự nhiên của nhiều vùng, thường cao cây, gạo ngon nhưng năng suất thấp, dễ đổ ngã khi gặp mưa to, gió lớn. Ngoài ra, còn có các giống lúa như xâu chuỗi, lúa vung, lúa tiễn, lúa cự, lúa cúc, lúa bông rinh, nếp tiêu, nếp ngự...

Đật đầu mối công trình thủy lợi Thạch Nham.

Tùy theo địa hình và nguồn nước tưới mà cây lúa ở đồng bằng được gieo cấy vào nhiều vụ khác nhau trong năm. Thường thì tháng 2 gieo mạ cấy lúa bát ngoạt (nguyệt), tháng 8 cấy lúa tàu núp, tháng 10 cấy lúa ba trăng, bông rinh, tháng chạp cấy lúa trì trì. Đồng gieo thiếu nước thì ngâm hạt thóc giống cho chớm mầm rồi gieo trực tiếp lên ruộng; đồng lúa nước thì gieo hạt thóc đã ủ nảy mầm để thành những luống mạ, sau đó nhổ mạ đem cấy xuống ruộng nước:

Anh lấy vợ trước anh có con trước

Em lấy chồng sau em có con sau

Lúa đen trổ trước phơi màu

Trì trì trổ muộn hai màu giống nhau.

Ngoài lúa, các loại ngô (bắp), sắn (củ mì) và khoai lang cũng là nguồn lương thực của người dân Quảng Ngãi. Ngô, sắn và nhất là khoai lang được trồng ở khắp nơi trong tỉnh, tập trung ở các vùng đất xám bạc màu, đất cát pha ven biển. Khoai lang các loại là món hàng chủ lực ở chợ Đình (Sơn Tịnh). Làng Long Phụng (Mộ Đức) được biết đến với giống khoai nhiều tinh bột, thơm ngon có tiếng:

Củ lang mỏng vỏ đỏ da

Ai về Long Phụng theo ta thì về.

[1] Lê Hồng Khánh. “Ca dao Quảng Ngãi- sưu tầm, chọn lọc, chú giải, bình luận”, NXB Thông tin và Truyền thông, HN, 2014. (Những câu ca dao sử dụng trong bài viết đều trích từ cuốn sách này).

Lê Hồng Khánh
Tin khác
Ứng dụng cảm biến tưới ngập - khô trên cánh đồng lớn tại An Giang
Ứng dụng cảm biến tưới ngập - khô trên cánh đồng lớn tại An Giang

An Giang đẩy mạnh ứng dụng tưới ngập - khô trên các cánh đồng lớn giúp giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng lúa gạo và hiệu quả sản xuất.

Lựa chọn công nghệ chế biến dừa
Lựa chọn công nghệ chế biến dừa

ĐBSCL Công nghệ chế biến dừa hiện đại, nâng chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Trình bày: PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch.

5 nhóm giải pháp nâng cao năng suất cây dừa
5 nhóm giải pháp nâng cao năng suất cây dừa

ĐBSCL Giải pháp quản lý sức khỏe tổng hợp cho cây dừa. Trình bày: ThS Huỳnh Thị Ngọc Diễm, Phó Giám đốc Trung tâm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phía Nam.

Ứng dụng công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội
Ứng dụng công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội

ĐBSCL Công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội. Bài trình bày của PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP.HCM.

Đưa Việt Nam trở thành trung tâm tri thức về nông nghiệp sinh thái
Đưa Việt Nam trở thành trung tâm tri thức về nông nghiệp sinh thái

ALiSEA Việt Nam có mạng lưới thành viên đa dạng, giàu kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp sinh thái với 69 tổ chức nghiên cứu, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp tư nhân.

Ong ký sinh - 'vệ sĩ' bảo vệ vườn dừa hữu cơ
Ong ký sinh - 'vệ sĩ' bảo vệ vườn dừa hữu cơ

Trước sự đe dọa của sâu đầu đen, ong ký sinh đang chứng tỏ là giải pháp hiệu quả để bảo vệ vườn dừa hữu cơ nói riêng, cây dừa nói chung.

Thức ăn nhân tạo cho tằm-hướng hợp tác mới giữa Việt Nam và Hàn Quốc
Thức ăn nhân tạo cho tằm-hướng hợp tác mới giữa Việt Nam và Hàn Quốc

Hàn Quốc đã làm chủ được công nghệ sản xuất thức ăn nhân tạo cho tằm, giúp năng suất kén tăng 15%, mở ra hướng hợp tác tiềm năng với ngành tơ tằm Việt Nam.

Tổng kết dự án khuyến nông trồng lúa giảm phát thải ở ĐBSCL
Tổng kết dự án khuyến nông trồng lúa giảm phát thải ở ĐBSCL

Sự thành công của mô hình góp phần tạo dựng hình ảnh hạt gạo Việt Nam gắn với trách nhiệm môi trường.

Đấu tranh sinh học trước ngưỡng cửa công nghiệp hóa và thách thức quy mô
Đấu tranh sinh học trước ngưỡng cửa công nghiệp hóa và thách thức quy mô

Việt Nam đặt kỳ vọng đưa đấu tranh sinh học từ mô hình thử nghiệm vào sản xuất đại trà, giảm phụ thuộc hóa chất, đáp ứng nhu cầu sản xuất xanh.

Hãy trồng trám
Hãy trồng trám

Ngành lâm nghiệp cho trồng trám để phủ xanh, chống xói mòn, lấy gỗ và lấy nhựa. Nhưng tới nay, quả trám lại thành nguồn thu lớn cho bà con.

Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật
Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật

Việt Nam cần ban hành một kế hoạch mới để tiếp tục xử lý, cải tạo và phục hồi những khu vực đặc biệt ô nhiễm do lịch sử để lại.

Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho
Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho

Viện Nha Hố đã nghiên cứu, chọn tạo nhiều giống nho và các giải pháp canh tác tiên tiến giúp nông dân Nam Trung Bộ ‘hái tiền’ từ cây trồng này.