
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy xem số báo đặc biệt kỷ niệm 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam cùng Ban Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Khương Trung.
Tôi lắng nghe và thầm biết ơn Bộ trưởng Đỗ Đức Duy – người đứng đầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường – đã đem đến cho tôi một cảm xúc rất riêng, một góc nhìn nhân văn, đậm chất nhân sinh về ruộng bậc thang – kỳ quan của đồng bào vùng cao Tây Bắc. Không phải qua một cuộc trò chuyện trực tiếp. Tôi chỉ được nghe ông nói trong một đoạn video rất ngắn, gửi trong nhóm Zalo chuyên môn của cơ quan, sau buổi gặp mặt những người làm Báo Nông nghiệp và Môi trường, chiều 21/6 – nhân Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025).
Thế nhưng, chính cái ngắn ngủi ấy lại để lại trong tôi một dư âm thật dài. Ông không phát biểu như một chính khách. Không nhiều mỹ từ. Chỉ là lời kể nhẹ nhàng, như trò chuyện với những người bạn giữa một buổi chiều tháng Sáu nhiều gió.
Ông nói về ruộng bậc thang – như nói về người tri kỷ, như đang lắng một bản nhạc từ ký ức: "Nếu nói ruộng bậc thang là sản phẩm của tạo hóa chưa hẳn đúng. Mà đó là sản phẩm của lao động, sự sáng tạo lao động của đồng bào vùng cao. Trong cuộc sống sinh tồn, họ buộc phải làm ra thứ tư liệu sản xuất ấy để nuôi sống chính mình. Và hôm nay, thứ tư liệu ấy lại trở thành một sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng cả một vùng…”.
Câu nói ấy – giản dị mà sâu xa – như một lát cắt trí tuệ mở ra một cánh cửa khác về nhìn nhận, đối với tôi. Ruộng bậc thang – không chỉ là cảnh đẹp để ngắm nhìn hay để chụp ảnh, mà là một bản tuyên ngôn sinh tồn khắc vào núi bằng dao, cuốc, bằng những đôi tay chai sần, bằng trí tuệ lặng lẽ của người vùng cao qua bao đời.
Tôi từng sống nhiều năm giữa bà con vùng cao. Từng đi qua mùa đói. Mùa mưa, mùa rét cùng họ. Để có bát cơm trắng nơi bàn ăn, người nông dân miền xuôi đã phải đánh đổi biết bao mồ hôi, nhọc nhằn. Nhưng ở miền núi cao này, nỗi nhọc nhằn ấy còn nhân lên gấp bội. Gạo không mọc từ ruộng bằng, mà mọc từ bậc đá. Mỗi mầm cây xanh lên từ đất là cả nỗi vất vả. Hành trình của người nông dân từ khâu làm đất cho đến lúc bưng bát cơm trên tay lắm nỗi nhọc nhằn.
Từ khâu cày lật đất, cho đến cày xáo, rồi bừa. Sự mưu sinh phải đánh đổi bằng những giọt mồ hôi, bằng sức lao động mà sản phẩm làm ra không đủ để bù đắp cho sức lực đã trút xuống ruộng đồng.
Tôi nghĩ: Chắc phải yêu quý và gắn bó rất lâu với con người vùng cao, ông mới có thể cất lên được một góc nhìn tinh tế và nhân hậu đến vậy. Góc nhìn làm tôi bỗng lặng đi – khi nhận ra ruộng bậc thang vốn không sinh ra để đẹp, để "làm du lịch", mà để sống. Để tồn tại. Rồi sau này, chính sự sinh tồn ấy mới hình thành nên bản quán, và trở thành văn hóa.

Ruộng bậc thang là kiến trúc của sinh tồn. Ảnh: Trần Hương.
Kiến trúc của sinh tồn
Người Mông không sinh ra đã có ruộng bậc thang. Họ chỉ có núi, dựng đứng, dốc thẳng và hoang sơ. Trong một thế giới không bằng phẳng, con người không có lựa chọn nào ngoài sáng tạo. Để gieo trồng, họ đào sâu từng lớp đá, đắp từng vụm đất. Mỗi lát đất nằm nghiêng là họ gởi ước mơ tương lai của mình vào đất. Mỗi đường cong là cả một ký hiệu sinh tồn.
Tôi từng đứng trên đỉnh Tả Lèng (Lai Châu), nhìn những thửa ruộng ôm núi thành từng vòng tay. Như ai đó đã chạm vào tự nhiên, mà không làm tổn thương đến núi. Đồng bào vùng cao là những kiến trúc sư không học vị, không bản vẽ. Nhưng họ biết lắng nghe chiều gió thổi, biết đo bước đi của ánh sáng và hiểu độ nghiêng của đồi, núi. Họ tạo đường đồng mức ôm sát thân đồi như sóng, như mây, mang hơi thở của rừng già…
Bộ trưởng gọi đó là “sản phẩm sáng tạo lao động”. Một cụm từ chứa đựng cả sự thừa nhận lẫn tôn vinh. Không phải sự lao động thuần túy – mà là lao động đi cùng tư duy – tư duy để sống và để hòa với thiên nhiên.
Lúa gặt xong, ruộng bậc thang nằm im đó, như một bức tranh điêu khắc vĩnh hằng. Chẳng cần ai đặt tên, ruộng bậc thang tự lên tiếng. Không cần dựng sân khấu, ruộng bậc thang tự kể về mình. Về những người nông dân khuya sớm trên đồng ruộng, về độ chênh cao tạo ra thác nước chảy rì rầm như một giai điệu đẹp của thiên nhiên kể về sức lao động sáng tạo của người vùng cao. Đó là nơi không chỉ sinh ra hạt gạo, mà sinh ra cả dòng chảy văn hóa của đồng bào vùng cao Tây Bắc.
Có thể nói, lịch sử hình thành ruộng bậc thang gắn liền với lịch sử và văn hóa cư trú của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc. Nếu như thiên nhiên ưu ái ban tặng cho người dân tộc Thái Tây Bắc với những cánh đồng rộng lớn “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”, thì khó khăn lại gấp bội khi cộng đồng người Mông, người Dao, người Hà Nhì... chọn cho mình những sườn đồi, trên đỉnh núi, làm nơi sinh sống.
Để đảm bảo đời sống, đồng bào phải chọn hình thức canh tác ngô, lúa trên nương, sống phụ thuộc vào nương rẫy. Thế nhưng, do ở các vùng cao, miền núi hiếm đất bằng để canh tác, việc phá rừng làm nương rẫy gần như không còn đem lại hiệu quả kinh tế. Thay vào đó là những khoảnh nương loang lổ, thoái hóa, bạc màu... Người dân đã khắc phục tình trạng đó bằng cách chọn các sườn đồi, dốc thoải có đất màu bạt tam cấp để tạo thành những vạt đất bằng, kết hợp canh tác lúa nước ở thung lũng hẹp với việc khai khẩn trên núi cao. Từ đó, những cung ruộng bậc thang dần hình thành.

Đồng bào miền núi phía Bắc thu hoạch lúa. Ảnh: Thanh Tiến.
Ban đầu những thửa ruộng bậc thang chỉ hình thành dưới chân núi để chủ động nguồn nước suối tưới tiêu. Sau này, người dân bắt đầu khai khẩn ruộng bậc thang lên cao dần trên đỉnh núi, hình thành nên những thửa ruộng bậc thang kỳ vĩ, ôm quanh những quả đồi.
Tôi đã từng gặp cụ ông Chang Pó Hừ, người Hà Nhìn, trên bản Tả Ko Khừ, xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Cụ bảo: Công cuộc khai hoang ruộng bậc thang, là đồng bào học cách làm lúa nước của người miền xuôi. Theo cụ Hừ thì Sín Thầu có nghĩa là bản mới; người Hà Nhì đã về đây sinh sống từ bao đời nay, từ khi dòng suối Mo Phí về mùa mưa vẫn còn cuồn cuộn sức vóc tự nhiên. Mùa màng bội thu có một phần năng lượng từ suối.
Những năm tháng ấy, lương thực của người dân chủ yếu là ngô, sắn làm trên nương. Để người dân có cuộc sống ấm no, lãnh đạo xã phối hợp với Đồn Biên phòng A Pa Chải vận động nhân dân khai hoang ruộng bậc thang, làm kênh mương thủy lợi, dẫn nước tưới cho cây lúa. Từ đó, những triền đồi thấp, uốn lượn quanh các khe suối đã được nhân dân khai hoang làm ruộng.
Nhưng đối với người Mông như cụ ông Thào A Tùng, ở Tả Phìn, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai thì quả núi người Mông chọn để làm ruộng bậc thang phải có độ dốc vừa phải, có nước nguồn từ suối, có khả năng tạo mặt bằng và ít sỏi đá. Công đoạn khó nhất và tốn nhiều công sức nhất chính là san mặt bằng và làm bờ ruộng. Người dân thường dùng cuốc cào núi thành bờ, dùng chân giẫm và đập mạnh sống cuốc để nén chặt bờ ruộng thì bờ mới có thể giữ nước.
Để dẫn nước về các ruộng bậc thang, người ta đào rãnh, tạo dòng chảy dẫn nước từ trên cao xuống thấp, từ bên này sang bên kia, từ ruộng trên xuống ruộng dưới. Phía trên ruộng bậc thang, người ta đào giao thông hào để phòng trừ mưa lớn nước tràn từ đỉnh nương xuống ruộng làm gẫy lúa, trôi màu, đồng thời đây cũng là hàng rào ngăn cản trâu, bò, dê vào ruộng phá hoại lúa.
Việc khai khẩn ruộng bậc thang kéo dài từ năm này qua năm khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác để tạo nên những cung ruộng ôm trọn dáng núi, từ trên đỉnh xuống đến chân đồi. Từng khu ruộng bậc thang xếp tầng tầng, lớp lớp, núi tiếp núi, đồi tiếp đồi như những bức tranh kỳ vĩ.
Ruộng bậc thang vùng Tây Bắc không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là môt bản hùng ca hùng vĩ về sự sáng tạo trong quá trình khai hoang, phục hóa, cải tạo thiên nhiên phục vụ cuộc sống của những con người cần mẫn.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chụp ảnh cùng Ban Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường bên số báo đặc biệt kỷ niệm 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: Khương Trung.
Để những bậc thang đem về no ấm
Nếu vỡ hoang là niềm vui của đời cha thì trái ngọt là hạnh phúc của đời con. Đồng bào vùng cao yêu đất từ nỗi vất vả nhọc nhằn mà hình thành nên bản quán. Những bậc thang ấy – ban đầu chỉ là phương kế để chống đói – giờ đã trở thành di sản, là sinh kế, văn hóa và cả lòng tự hào. Bởi ruộng bậc thang không chỉ sinh ra từ đất mà từ mồ hôi, khát vọng và cả những nhọc nhằn âm thầm suốt bao thế hệ, chảy suốt trong những năm tháng dài đằng đẵng…
Ở vùng cao Tây Bắc, mở rộng khai hoang, phục hóa ruộng bậc thang không chỉ là một quyết sách nông nghiệp – mà là một hành trình gìn giữ sự sống. Hành trình ấy bền bỉ, gian nan, nhưng đang từng ngày đem lại cơ hội xóa đói giảm nghèo, ổn định sản xuất cho đồng bào nơi rẻo cao – nơi thiếu đất bằng, thiếu nước, thiếu cả cơ hội sinh kế.
Dẫu vậy, con đường khai hoang không phải không gập ghềnh. Quỹ đất thuận lợi cho trồng lúa đang dần cạn kiệt, trong khi chi phí để cải tạo đất trên núi dốc cao ước tính khoảng 100 triệu đồng mỗi hecta – là con số quá lớn đối với những hộ nghèo miền núi. Mức hỗ trợ của Nhà nước còn thấp, trong khi điều kiện kinh tế của người dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Như ở Điện Biên – vùng đất địa hình chia cắt, độ dốc lớn – diện tích đất nông nghiệp tuy rộng, nhưng lại manh mún, nhỏ lẻ. Có nơi, cả bản làng chỉ trông cậy vào vài đám ruộng cũ, đất cằn khô nứt nẻ. Nhưng chính ở nơi khắc nghiệt đó, những năm qua, chính quyền địa phương đã kiên trì vận động, hỗ trợ bà con mở đất, dẫn nước, tạo nên những vạt ruộng mới từ sườn núi đá.

Diện mạo nông thôn mới khởi sắc, khấm khá ở huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Ảnh: Thanh Tiến.
Với chính sách hỗ trợ 10-15 triệu đồng mỗi hecta tùy loại hình (khai hoang, phục hóa, cải tạo thành ruộng bậc thang), giai đoạn nở rộ từ năm 2014 đến 2017, Điện Biên đã khai hoang được hơn 640ha đất mới – trong đó khoảng 430ha đã canh tác được hai vụ lúa. Một con số chưa lớn, nhưng là kết quả của rất nhiều nỗ lực cộng dồn từ cộng đồng, chính quyền và cả những bàn tay lấm lem đất núi.
Không chỉ riêng Điện Biên, nhiều tỉnh Tây Bắc cũng đã xác định: Khai hoang ruộng bậc thang chính là một trong những chỉ tiêu đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Đó không chỉ là mở đất – mà là mở cơ hội sống. Là khôi phục những triền đồi từng bạc màu, từng bị lãng quên bởi thời gian, nay lại xanh trở lại nhờ bàn tay người.
Nhưng để những thửa ruộng ấy thực sự mang lại no ấm, chính quyền các địa phương đang tiếp tục đồng hành: quy hoạch rõ vùng khai hoang, đầu tư công trình thủy lợi nhỏ, phổ biến kỹ thuật cải tạo đất, gieo trồng… Ruộng màu mỡ hơn khi có nước – và người chỉ có thể giữ rừng, giữ núi – khi cái bụng đã no, cái nhà đã ấm.
Những vết cắt của bậc thang trên sườn đồi – như họa của thiên nhiên. Nhưng với người vùng cao, đó là dòng máu chảy từ cha ông để lại. Là kiến trúc sinh tồn khắc lên núi bằng niềm tin rằng: thiên nhiên dẫu khắc nghiệt, nhưng lòng người còn thắng cả thiên nhiên.