
Ký sự về một dải biên cương nắng gió, người nông dân bền bỉ trên đồi đất khô cằn, khát vọng thoát nghèo bừng lên thành niềm tin vững chãi con người Điện Biên.



Sáp nhập báo Nông nghiệp Việt Nam và báo Tài nguyên và Môi trường thành báo Nông nghiệp và Môi trường, tôi được Ban Biên tập tin tưởng giao tiếp tục thường trú tại miền biên viễn Điện Biên. Đêm đó, tôi nhận điện thoại từ Phó Tổng Biên tập Trần Cao: “Mai tổ truyền hình của tòa soạn lên làm về sinh vật gây hại cây mắc ca giúp bà con huyện Tuần Giáo. Có cả chuyên gia Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đi cùng. Chuyên gia sẽ tư vấn cho địa phương và nông dân cách phòng, chống bệnh…”.
“Dạ!” - tôi trả lời nhanh rồi “sét - ắp công việc tức thì. Đúng 15 giờ, tôi đón đoàn tại sân bay Điện Biên Phủ. Lên xe, chúng tôi không về khách sạn mà đi thẳng cánh đồng Mường Thanh.
Ekip chúng tôi gồm Đăng – đạo diễn, Thủy và Phòng – hai phóng viên quay phim của Báo Nông nghiệp và Môi trường. Đăng, trưởng nhóm, cao ráo, thông minh, dáng người nổi bật. Thủy – cô gái nhẹ nhàng, ít nói, chỉ mỉm cười thay cho đồng ý. Còn Phòng, tôi hay gọi đùa là “Buồng”, trầm tính... Mỗi lần gọi “Buồng”, hắn lại cúi xuống cười hiền như con gái, khiến cả nhóm cười vang. Trên xe, chúng tôi bàn đủ mọi kế hoạch, chuẩn bị cho những ngày tác nghiệp.
Trời nắng như rang, cánh đồng Mường Thanh lặng gió, cây cối đứng im lìm như thóc ngủ trong bồ. Chị Chu Thị Thanh Xuân, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường và anh Ngô Xuân Chinh, Phó Chủ tịch UBND huyện Điện Biên đã chờ sẵn chúng tôi ở trụ sở xã Thanh Xương, từ hai rưỡi chiều.
Sau cái bắt tay giới thiệu, chúng tôi lôi nhau ra cánh đồng như thể “giời hành”, giữa cái nắng ngoài trời gần 40 độ. Cả ekip nhanh chóng bắt tay vào việc.


Trong lúc chờ cảnh quay nông dân thu hoạch lúa, chúng tôi đứng trên bờ vùng, một chị nông dân dáng người nhỏ nhắn, giọng lảnh lót: “Lúa ST25 nổi tiếng vậy mà mấy bà buôn cứ giả giá như lúa tạp, ức thế!”. Ở cánh đồng Mường Thanh, gạo được giá nhất vẫn là Séng Cù và Tám Thơm, gạo ST25 nổi tiếng là vậy nhưng vẫn khó bán hơn.
Chúng tôi tiến về phía có chiếc ô lớn của nông dân, nơi tránh nắng. Chị Xuân kể: Quê chị ở Nam Định. Năm 1996, tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp 1, chị lên Điện Biên nhận nhiệm vụ. Hành trình từ xuôi lên gian nan, mấy ngày mới tới. Đó là Điện Biên một thời quá xa xôi, ít người và heo hút.
Sáng đến Tuần Giáo, tỉnh ngủ sau cơn say xe, mở mắt ra thấy núi chắn ngay trước mặt, chị bật khóc vì lạ lẫm. Vậy mà đã hơn 30 năm chị gắn bó với nông nghiệp Điện Biên. Ấn tượng nhất là cánh đồng Mường Thanh bạt ngàn xanh mướt lúa, một trong tứ đại đồng Mường (4 cánh đồng lớn nhất Tây Bắc: Mường Thanh – Điện Biên, Mường Lò – Yên Bái, Mường Than – Lai Châu, Mường Tấc – Sơn La) nổi tiếng.


Chạy dọc quốc lộ 279, đoạn từ C9 về Pom Lót, những thửa ruộng trũng dân đành để bèo tây mọc, nuôi lợn thay vì trồng lúa.

Bẵng đi một dạo, khu vực này bỗng trở thành điểm “đổ đất trồng cây”, thành bãi đổ thải xây dựng. Cùng với sự “tranh thủ” của người dân là sự buông lỏng quản lý đất đai từ nhiều năm trước, những khoảnh đất ấy bây giờ mọc lên hàng quán, nhà xưởng… dựng trái phép trên đất nông nghiệp lên đến hàng trăm hộ. Điện Biên đành quy hoạch theo hiện trạng để ổn định dân cư, thuộc nhóm: giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Trước thực tế đó, tôi bày tỏ những lo ngại với chị Xuân, mong nghe thêm góc nhìn và giải pháp từ lãnh đạo Sở về vấn đề đất canh tác trên cánh đồng Mường Thanh đang có nguy cơ bị thu hẹp.

Chị bảo: Việc bảo vệ và phát triển cánh đồng Mường Thanh đã được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đưa vào Nghị quyết số 09, ngày 29/7/2021. Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao Ban Cán sự UBND tỉnh triển khai xây dựng Đề án bảo vệ và phát huy giá trị cánh đồng này. Hiện tại, các sở, ngành cùng UBND huyện Điện Biên và TP Điện Biên Phủ gấp rút hoàn thiện các bước cuối trước khi trình thông qua đề án.
Phó Chủ tịch UBND huyện Điện Biên Ngô Xuân Chinh gật đầu xác nhận, mắt ánh lên cảm xúc: “Cánh đồng Mường Thanh không chỉ là vựa lúa của tỉnh mà còn là chứng nhân lịch sử trong cuộc chiến chống thực dân Pháp thắng lợi năm 1954. Bảo vệ cánh đồng, chính là bảo vệ di tích lịch sử, đồng thời giữ vững nguồn an ninh lương thực cho đồng bào các dân tộc ở nơi đây”.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hơn 2.000 thanh niên xung phong từ khắp mọi miền đất nước lên Điện Biên, xây dựng hồ thủy lợi Pa Khoang và công trình đại thủy nông Nậm Rốm, hoàn thành năm 1963. Chính nhờ những công trình ấy, cánh đồng Mường Thanh được mở rộng diện tích gieo cấy lúa hai vụ: từ 2.400ha năm 1984, đến năm 2017 đã đạt 4.300ha. Mường Thanh là cánh đồng lúa lớn nhất Tây Bắc.
Từ chỗ thiếu lương thực, giờ đây Điện Biên đã trở thành địa phương cung cấp lương thực cho các địa phương khác. Hành trình từ bị động đến chủ động ấy là kết tinh của trí tuệ tập thể, nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền tỉnh Điện Biên và sự bền bỉ của bao thế hệ nông dân – những người đã làm nên kỳ tích trên cánh đồng Mường Thanh, còn hạt gạo Điện Biên thì nức tiếng miền Bắc.
Tất cả chúng tôi lặng im, vút tầm mắt trên cánh đồng Mường Thanh đang phả nắng. Gió bắt đầu thổi nhẹ mơn lên tóc... Giữa đất trời mênh mang nắng gió, thoảng nghe như có tiếng hò dô vọng từ đất mẹ – tiếng thì thầm của trận đánh năm nào…
Chị Xuân đứng bên cạnh, ngẫm ngợi rồi khẽ chỉ tay nói với tôi về phía những thửa ruộng còn xanh chưa gặt: "Một trong những mục tiêu quan trọng của đề án, là làm sao để cánh đồng này không còn như áo vá. Muốn thế phải ba cùng: cùng giống, cùng thời điểm, cùng kỹ thuật. Làm được như thế sẽ giảm được lượng giống, tiết kiệm nước tưới, phân bón; chất lượng gạo cũng ngon hơn... Phải tăng cường chế phẩm sinh học, phân hữu cơ để đảm bảo chất lượng hạt gạo. Và đặc biệt, phải giữ nguyên hiện trạng địa hình, giữ được độ dốc tự nhiên để nước tự chảy...".
Khi chiều buông thì cảnh quay cuối cùng với lãnh đạo sở và huyện cũng khép lại. Chúng tôi đứng lọt thỏm giữa thung lũng Mường Thanh, quay trước, quay sau, phương nào cũng núi. Núi mẹ, núi con lô nhô, bồng bế nhau…, tinh núi là núi. Ngửa mặt nhìn trời cũng núi. Cúi xuống thau nước cũng núi. Núi ở đầy trong mắt.
Và núi đã làm nên một xứ sở diệu kỳ.




Hôm sau, chưa tỏ mặt người, chúng tôi lên đường đi Mường Ảng. Tháng 6, trời Điện Biên thật lạ, nắng ngay đó, mưa đổ ngay đó. Ngồi trên xe, cả đoàn cùng chung một nỗi lo: Cảnh quay cà phê hôm nay e là bể trận!
Tám giờ sáng, mưa vẫn nặng hạt, sương phủ trắng thung lũng Mường Khoe. Nước từ ta luy tràn xuống đường đỏ lòm như mắt quỷ. Anh Nguyễn Thế Trung – Phó Chủ tịch HĐND huyện Mường Ảng – đưa chúng tôi thăm mô hình cà phê sạch ở bản Nà Nuông. Đây là dự án do một tổ chức quốc tế hỗ trợ, đầu tư nhà màng, máy móc, giúp phụ nữ dân tộc thiểu số khởi nghiệp từ hạt cà phê quê nhà.
Mô hình có tổng cộng 5 chị em, chuyên bán cà phê xanh và bột cà phê Arabica siêu sạch cho mọi khách hàng có nhu cầu. Chị Tòng Thị Ngoan, thành viên nhóm, chia sẻ: “Nhóm hiện có ba loại sản phẩm chính gồm cà phê mật ong, bột cà phê và nhân cà phê xanh. Mỗi sản phẩm đều được làm thủ công, tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn chất lượng cao. Riêng sản phẩm cà phê phơi cả quả của nhóm, đã được huyện công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao, giá bán 400.000 đồng mỗi ký”.


Ở mô hình này, gia đình mỗi thành viên sở hữu từ 2 đến 3 hecta cà phê. Mỗi vụ thu hoạch, các chị kỹ lưỡng chọn từng quả cà phê căng mọng, chín đều để làm cà phê sạch đạt chuẩn 3 sao. Các chị còn mua thêm cà phê loại 1 của bà con trong bản để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Trưởng nhóm Lò Thị Tiên kể lại: Năm 2016, giá cà phê quả tươi chỉ còn 3.000 đồng một ký, người dân bản Nà Nuông như bị cảm lạnh, ai cũng muốn chặt phá bỏ đi. Trong khi đó, công hái, công chăm sóc, phân bón đều tốn kém… Bà con rơi vào cảnh nợ nần. Cán bộ xã, huyện hiểu chuyện, liên tục xuống tuyên truyền, vận động bà con không phá bỏ cà phê.
Phó Chủ tịch HĐND huyện Nguyễn Thế Trung bây giờ mới lên tiếng, anh nói chậm rãi, cốt để chia sẻ: Ban Thường vụ Huyện ủy rất quyết tâm, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm và đã đưa hẳn nội dung giữ lại vườn cà phê vào Nghị quyết Đảng bộ huyện, như một cam kết chiến lược đối với phát triển nông nghiệp bền vững, gắn với bảo vệ sinh kế cho người dân.
Quan điểm được xác lập rõ ràng: Địa bàn nào để dân chặt phá cà phê thì người đứng đầu cấp ủy ở đó phải chịu trách nhiệm, thậm chí bị kỷ luật. Chính nhờ quyết sách quyết liệt ấy mà hơn 2.000ha cà phê chè - Arabica đặc thù Mường Ảng đang cho thu hoạch của huyện đã được giữ lại đến hôm nay.
Giữa lúc giá cà phê rơi xuống chạm đáy, chính quyền huyện Mường Ảng đã chủ động vào cuộc, kêu gọi doanh nghiệp cùng đồng hành với nông dân. Huyện đã ký cam kết với Công ty TNHH XNK cà phê Việt Bắc, bao tiêu cà phê tươi trong ba năm liền, với mức giá tối thiểu 10.000 đồng/kg.


Vùng trồng cà phê Arabica Mường Ảng như được tái sinh. Những vườn cà phê khô héo vì mất giá được chăm sóc trở lại. Tia hy vọng đã được thắp lên trong lòng dân – không chỉ là hy vọng về mùa vụ, mà còn là niềm tin vào sự đồng hành của Đảng và chính quyền với bà con trong lúc khó khăn.
Tới vụ cà phê năm 2024, Mường Ảng vào mùa trong niềm vui trọn vẹn. Giá cà phê tươi đầu vụ được thương lái thu mua ở mức 15.000 đồng/kg. Sau vài tuần đạt đỉnh 21.000 đồng/kg – mức giá cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Năm 2025 giá cà phê chè Arabica tiếp tục giữ vững ở mức cao. Vậy là sau những tháng ngày khốn khó, liên tiếp ba vụ liền, nông dân Mường Ảng được gặt hái cả niềm tin lẫn trái ngọt. Mỗi sào cà phê không chỉ mang lại thu nhập, mà còn là kết quả của sự kiên cường bám đất, giữ cây, của chính sách đúng, quyết liệt từ cấp ủy, chính quyền.

Kết thúc câu chuyện cà phê Mường Ảng trong dư âm ngọt ngào, chúng tôi lên xe trở về thành phố đón chuyên gia Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam từ Hà Nội lên. Năm giờ sáng hôm sau, lại mưa xối xả. Chúng tôi thật sự lo lắng cho buổi ghi hình chuyên gia với các nhà vườn.
Bảy giờ sáng – thị trấn Tuần Giáo vẫn còn trong cơn ngái ngủ, phố vắng hoe, quán xá chưa mấy người. Hải Đăng, đạo diễn, nhìn ra ngoài cửa kính, sốt ruột hỏi: “Hôm nay chuyên gia tổ chức tọa đàm ngay vườn mắc ca, trời mưa thế này, liệu có làm được không?”. Đôi mắt Đăng lo âu, lặng im nhìn qua cửa kính, mưa vẫn nặng hạt. Xe qua thị trấn, thẳng hướng xã Quài Nưa – vùng đất đang khoác lên mình sắc xanh của hàng nghìn hecta mắc ca.
Chuyện cây mắc ca bén duyên với đất Điện Biên như một hành trình đầy thử thách và khát vọng. Năm 2013, những cây mắc ca đầu tiên được trồng thử nghiệm tại 2 huyện Tuần Giáo, Mường Ảng và TP Điện Biên Phủ. Năm 2020, Đảng bộ tỉnh chính thức chọn mắc ca làm cây trụ cột, mở rộng diện tích khắp 11 huyện, thị xã, thành phố.
Các cuộc họp kéo dài xoay quanh việc kêu gọi đầu tư, thống nhất cơ chế chia sẻ lợi ích, hỗ trợ kỹ thuật đã diễn ra liên tục. UBND tỉnh Điện Biên đã phê duyệt 5 dự án trồng mắc ca với tổng diện tích 17.214 ha, tổng mức đầu tư gần 4.730 tỷ đồng, khởi đầu cho một làn sóng chuyển đổi mạnh mẽ…

Đến nay, diện tích mắc ca toàn tỉnh đạt 12.300ha. Tuần Giáo dẫn đầu, sở hữu hơn 5.000ha. Trong số đó, 1.553ha đang cho thu hoạch, mang lại thu nhập ổn định cho người dân.
Ông Chanh, người nông dân cần mẫn xã Quài Nưa, kể: “Nhà tôi có hơn trăm gốc mắc ca đang cho quả, trừ chi phí, mỗi năm lãi hơn trăm triệu”. Ông đưa tay nhẩm tính, giọng khẽ rộn lên: “Mỗi cây năm thứ ba cho khoảng 60 cân quả, nhân với giá 45.000 đồng một ký. Đấy…! Cứ nhân lên là ra thu nhập. Tôi bảo thật, chỉ cần mỗi người dân Tuần Giáo có trăm gốc mắc ca thôi, cuộc sống đã khác hẳn rồi”.
Nắng lên, buổi tọa đàm diễn ra như ý - bà con nông dân chờ từ sớm. Một bác chống cuốc nói: “Cây có kiến lửa làm tổ thì phun thuốc gì, thưa chuyên gia?”.
“Bác đừng giết chúng! Kiến lửa là vệ sĩ tự nhiên, ăn sâu, diệt trứng côn trùng gây hại đấy ạ” – Chuyên gia Lê Văn Bình, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo vệ rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam giải đáp.
Chị Tuyên, Phó Chủ tịch huyện, quay sang tôi thì thào, miệng cười như mắc lỗi: “Chết thật! Nhà chị trồng hơn 200 gốc, cứ thấy kiến là bắt sạch. Ai ngờ lại là… bạn. Đấy! Từ nay phải giữ kiến cho cây”.
Mặt trời đứng bóng, chúng tôi tất tả quay về thành phố cho kịp buổi phỏng vấn chiều với lãnh đạo tỉnh. Giai đoạn này cả hệ thống chính trị tỉnh Điện Biên đang bước vào “cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy, đồng thời gấp rút chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp. Giữa bộn bề công việc, tôi đã điện thoại đặt lịch làm việc với Chủ tịch UBND tỉnh Lê Thành Đô. Không một giây do dự, ông nhận lời ngay:
- Chiều thứ Sáu mời đoàn qua. Không có thời gian nên tôi chỉ trả lời vo nhé!
Sự thẳng thắn, quyết đoán và nhiệt tình của người đứng đầu chính quyền tỉnh khiến chúng tôi trân trọng. Trong buổi làm việc ngắn gọn, tôi đi thẳng trọng tâm:
- Thưa ông, làm thế nào để Điện Biên đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số? Và đâu là thế mạnh cốt lõi của vùng đất này?
Chủ tịch UBND tỉnh Lê Thành Đô lặng im đôi chút rồi chậm rãi, rõ ràng:
- Câu hỏi của nhà báo rất hay. Trúng và gọn. Điện Biên xác định nông nghiệp là ngành kinh tế mũi nhọn, là nền tảng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bền vững, toàn diện. Với quyết tâm chính trị cao, tỉnh đang tập trung tái cơ cấu mạnh mẽ ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng khoa học – công nghệ, gắn với xây dựng chuỗi giá trị và phát triển kinh tế nông thôn.

Ưu tiên phát triển các cây trồng chủ lực như: lúa gạo, mắc ca, cà phê và cao su. Trong đó, mắc ca được xác định là cây chiến lược, với mục tiêu phát triển 60.000ha đến năm 2030. Tỉnh tạo mọi điều kiện để Tập đoàn TH true MILK xây dựng vùng nguyên liệu và đặt nhà máy chế biến. Phấn đấu đến tháng 12/2025, phải có đất sạch bàn giao cho doanh nghiệp.
Đồng thời, bảo vệ và phát triển cánh đồng Mường Thanh theo mô hình cánh đồng lớn, nâng tầm thương hiệu gạo Điện Biên. Với cà phê Mường Ảng, tỉnh định hướng mở rộng diện tích trồng xen dưới tán mắc ca, khai thác hiệu quả đất đai, nâng cao giá trị trên một đơn vị canh tác.
Việc bảo vệ cánh đồng Mường Thanh, phát triển cà phê, mắc ca trên đất dốc không chỉ là bài toán sử dụng đất hiệu quả, mà còn là mạch sống, là khát vọng của đồng bào các dân tộc Điện Biên. Từng hạt giống, giọt mồ hôi hòa cùng quyết tâm, trí tuệ của cả hệ thống chính trị, hun đúc nên sức mạnh để Điện Biên chuyển mình cùng đất nước. Có thể kết quả hôm nay chưa trọn vẹn, nhưng ý Đảng – lòng dân hòa quyện chính là nền tảng để con tàu phát triển tăng tốc, về đích sớm hơn. Giữ đất, giữ nghề, giữ người – cũng là giữ niềm tin, dựng thế trận lòng dân nơi cực Tây tổ quốc.

