Phát huy cao độ tinh thần yêu nghề, trách nhiệm với ngành
Những năm qua, mặc dù bối cảnh chung có nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách và hạn chế về nguồn lực đầu tư, nhưng đội ngũ cán bộ khoa học trong ngành nông nghiệp đã phát huy cao độ tinh thần yêu nghề, trách nhiệm với ngành và bà con nông dân. Bằng sự nỗ lực, chủ động vượt khó, ngành đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể:
- Đã có những đóng góp quan trọng vào tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Hàng loạt tiến bộ khoa học – công nghệ (KHCN) đã được nghiên cứu, ứng dụng vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của nhiều sản phẩm nông nghiệp chủ lực như lúa gạo, cà phê, cao su, thủy sản… Nhờ đó cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch phù hợp, tích hợp đa giá trị, hiệu quả hơn gắn với thị trường, tăng tỷ trọng các tiểu ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và giá trị cao, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm.

Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, các nhà khoa học ngành nông nghiệp những năm qua đã phát huy cao độ tinh thần yêu nghề, trách nhiệm với ngành và bà con nông dân. Ảnh: Hoàng Vũ.
Ứng dụng KHCN hiện đã bao trùm trên tất cả các lĩnh vực từ trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi, công nghệ sau thu hoạch…, góp phần thúc đẩy sản xuất, chế biến, kinh doanh theo hướng liên kết chuỗi giá trị, hình thành vùng sản xuất khép kín quy mô hàng hóa, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường. Hoạt động chuyển giao KHCN được triển khai mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, góp phần giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất.
- Phát triển giống cây trồng, vật nuôi và tiến bộ kỹ thuật mới: Trong 5 năm qua, đã có hơn 120 giống cây trồng, vật nuôi mới được chọn tạo, nhiều giống thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm chi phí, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, đồng thời có trên 500 tiến bộ kỹ thuật được công nhận và đưa vào sản xuất, góp phần tăng năng suất, chất lượng và giá trị nhiều sản phẩm chủ lực như lúa, cà phê, cao su, thủy sản.
Trình độ của các nhà khoa học trong nước cũng ngày càng được nâng cao rõ rệt, thể hiện qua những thành công trong nghiên cứu ứng dụng công nghệ gen trong lai tạo giống cây trồng chống chịu với sâu bệnh và điều kiện bất thuận, ứng dụng kỹ thuật chỉnh sửa hệ gen thực vật. Hoàn thiện quy trình sản xuất tinh đông lạnh gia súc, quy trình gây động dục và thụ tinh nhân tạo cho trâu bò, sản xuất tinh trâu bò đông lạnh dạng cọng rạ đảm bảo chất lượng tốt...
Lĩnh vực thuỷ sản cũng đã chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ nhờ áp dụng KHCN. Hàng loạt giống thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá vược, cá chim vây vàng, cá nhụ, cá chiên, cá lăng, chạch chấu, hải sâm, ốc hương và các giống cá nước lạnh đã được sinh sản nhân tạo thành công và làm chủ công nghệ nuôi.

5 năm qua, đã có hơn 120 giống cây trồng, vật nuôi mới được chọn tạo. Ảnh: Hoàng Vũ.
Lâm nghiệp cũng là một điểm sáng trong hoạt động ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo. Thời gian qua, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã có 78 giống cây trồng, 35 tiến bộ kỹ thuật, 11 sáng chế và các giải pháp hữu ích được công nhận. Đặc biệt, giống keo lá tràm AA9 trồng ở Đông Nam Bộ có năng suất đạt tới 34 m3/ha/năm, gấp hơn 3 lần so với giống thông thường, tương đương năng suất keo lai. Năm 2024, diện tích rừng trồng tập trung ước khoảng 282 nghìn ha, tăng 0,2% và 130 triệu cây phân tán; sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng ước đạt 22,88 triệu m3, tăng 9,8%.
- Kết quả nghiên cứu KHCN không chỉ giúp duy trì ổn định sản lượng lương thực mà còn thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, tuần hoàn, giảm phát thải. Cùng với sự dịch chuyển tư duy xanh - hành động xanh - nông nghiệp xanh hiện hữu trong tất cả các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp, nông nghiệp không chỉ nhất quán chủ trương xây dựng theo định hướng sinh thái - nông thôn hiện đại - nông dân văn minh mà còn góp phần quan trọng vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế xanh của Chính phủ.
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao và chuyển đổi số, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ gen, công nghệ cao, mô hình sản xuất thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, truy xuất nguồn gốc, quản lý dịch hại bằng công nghệ sinh học.
Nhờ ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, việc tạo ra giống lúa mới đã trở nên hiệu quả hơn. Hiện nay chỉ cần 30 - 50 tổ hợp lai để chọn tạo ra một giống lúa mới (so với khoảng 100 tổ hợp lai như trước đây), giúp rút ngắn thời gian chọn giống xuống còn khoảng 3 - 5 năm, giảm đáng kể thời gian và công lao động, đồng thời đáp ứng được hầu hết các yêu cầu quan trọng như năng suất cao, chất lượng gạo ngon, thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và thích ứng rộng, nâng giá gạo xuất khẩu từ 350 - 400 USD/tấn lên 550 USD/tấn.
Sản xuất rau và cây ăn quả những năm qua liên tục tăng về diện tích, năng suất và sản lượng, chủng loại đa dạng phong phú. Nếu ở nhiệm kỳ trước chỉ riêng cây thanh long mang lại kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD thì nhiệm kỳ này cây sầu riêng đã mang lại nguồn thu tương tự, nhiều cây trồng xuất khẩu tiềm năng khác cũng đang được nghiên cứu, phát triển.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp nhận và chuyển giao nhiều công nghệ tiên tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Về hợp tác quốc tế, đã triển khai nhiều dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các đối tác quốc tế, giúp mở rộng thị trường và nâng cao trình độ KHCN của ngành. Hợp tác song phương, đa phương và khu vực được đẩy mạnh thông qua các hoạt động tổ chức hội nghị, hội đàm trực tiếp và trực tuyến với các đối tác quốc tế để triển khai hiệu quả các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương về lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời tăng cường thu hút và quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ nước ngoài. Vận động các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ song phương, đa phương tài trợ cho ngành từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, FAO, UNDP, WWF, WB, ADB...

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn kiểm tra phát triển cây ăn quả tại các tỉnh ĐBSCL. Ảnh: Minh Đãm.
Khuyến khích sáng tạo, dám nghĩ, dám làm
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng ủy Bộ NN-PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt đối với công tác KHCN, thể hiện:
Đã chỉ đạo định hướng chiến lược, ban hành các nghị quyết, chương trình hành động về đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN, gắn nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn sản xuất và thị trường.
Giai đoạn 2020 - 2024, ngành NN-PTNT tiếp tục triển khai, thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của BCH Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2025…
Lãnh đạo công tác tổ chức, nhân sự khoa học: Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát huy đội ngũ cán bộ khoa học; khuyến khích sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Chỉ đạo huy động nguồn lực: Chủ động lồng ghép các nguồn vốn, huy động xã hội hóa, tăng cường hợp tác công – tư để triển khai nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
Gắn KHCN với nhiệm vụ chính trị của ngành: Chú trọng những đề tài, dự án phục vụ trực tiếp tái cơ cấu ngành, phát triển sản phẩm chủ lực và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhờ sự lãnh đạo sát sao và định hướng đúng đắn của Đảng ủy Bộ, hoạt động KHCN của ngành nông nghiệp trong nhiệm kỳ qua đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống người dân.

Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị mở ra thời cơ vàng để bứt phá khoa học công nghệ ngành nông nghiệp. Ảnh: Hoàng Vũ.
Động lực từ Nghị quyết 57
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị mở ra thời cơ vàng để KHCN trở thành động lực chủ yếu cho tái cơ cấu ngành, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tôi kỳ vọng:
- Hình thành các cụm nghiên cứu – đổi mới sáng tạo tầm quốc gia cho lúa gạo, thủy sản, cây ăn quả, cây công nghiệp và nền nông nghiệp sinh thái.
- Bứt phá về giống và công nghệ sinh học, làm chủ công nghệ gen để tạo ra nhiều thế hệ giống cây trồng, vật nuôi mới, vật liệu di truyền quý mang các tính trạng đột phá về chất lượng và chống chịu với dịch hại, điều kiện bất thuận.
- Tập trung mũi nhọn vào nghiên cứu giải pháp kỹ thuật cải tiến chất lượng sản phẩm gắn với chế biến sâu; nghiên cứu và ứng dụng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất theo chuỗi giá trị bền vững.
- Nghiên cứu ứng dụng chuyển đổi số toàn diện trong sản xuất, quản lý, thương mại nông sản, hình thành hệ sinh thái dữ liệu lớn ngành nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, giảm phát thải, tận dụng phụ phẩm, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.
- Đầu tư nâng cấp các cơ sở nghiên cứu về trang thiết bị và đào tạo con người để đạt được trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới - giai đoạn chuyển từ nghiên cứu phát triển số lượng sang chất lượng, an toàn thực phẩm gắn với tăng trưởng xanh và bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu.

Theo GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, cần sớm hình thành quỹ nghiên cứu để bổ sung cho KHCN. Ảnh: Hoàng Vũ.
- Nhanh chóng nghiên cứu và rà soát điều chỉnh các cơ chế, chính sách, đặc biệt là cơ chế tự chủ trong khoa học, cơ chế đầu tư trước - hỗ trợ sau cũng như các quy định, đặc biệt là quy định về tài chính. Nhanh chóng hình thành nguồn quỹ nghiên cứu trên cơ sở hỗ trợ của ngân sách nhà nước và nguồn thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là một phần trích từ hoạt động xuất khẩu để bổ sung cho KHCN. Nguồn thu này một phần sử dụng để duy trì ổn định hoạt động của các tổ chức nghiên cứu, một phần sử dụng để trả lại cho các tổ chức, cá nhân đã tạo ra kết quả phục vụ chính mặt hàng xuất khẩu, từ đó khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu khoa học.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp tinh gọn bộ máy
Để nâng cao năng lực nghiên cứu phù hợp với yêu cầu trong giai đoạn mới, trong thời gian tới, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam sẽ tập trung chỉ đạo một số nội dung chủ yếu sau:
- Tiếp tục rà soát, sắp xếp tinh gọn bộ máy để tránh trùng lắp, nâng cao hiệu quả đầu tư và phối hợp giữa các viện nghiên cứu cơ bản, viện nghiên cứu chuyên đề và viện vùng.
- Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản để tạo lập cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phát triển các công nghệ đột phá theo hướng tạo ra sản phẩm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm gắn với ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số.
- Đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật di truyền và công nghệ gen, công nghệ sinh học để tập trung nghiên cứu cải tiến các tính trạng của các giống cây trồng tốt như giống lúa, ngô, cà phê, điều… theo hướng chống chịu với sâu bênh, chống chịu điều kiện bất thuận, phù hợp với cơ giới hoá đồng bộ và chế biến sâu. Đối với các nhóm cây trồng khác, đặc biệt là cây ăn quả và rau, hoa, sẽ đẩy mạnh ứng dụng các kỹ thuật di truyền hiện đại như đột biến, công nghệ gen kết hợp với lai tạo truyền thống để tạo được các tính trạng tốt.

Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục rà soát, sắp xếp tinh gọn bộ máy để tránh trùng lắp, nâng cao hiệu quả đầu tư và phối hợp giữa các viện thành viên. Ảnh: Hoàng Vũ.
- Nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D): Tranh thủ nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và hợp tác quốc tế để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo con người, đảm bảo xây dựng được các phòng thí nghiệm tập trung, hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế. Kết hợp giữa nâng cấp đồng bộ phòng thí nghiệm với nhà kính, nhà lưới, đồng ruộng với đào tạo con người để nâng cao chất lượng nghiên cứu, tạo sản phẩm đột phá về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và công nghiệp hoá, góp phần giảm giá thành sản xuất.
- Đổi mới hệ thống quản trị khoa học và công nghệ để khơi dậy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần làm chủ công nghệ trong đội ngũ nhà khoa học. Đào tạo được nguồn lực cán bộ chuyên sâu và đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế: Mở rộng hợp tác với các viện, trường đại học, tổ chức quốc tế để tiếp cận công nghệ tiên tiến, chia sẻ kinh nghiệm và nguồn lực.
Trong nhiệm kỳ tới, tôi mong muốn Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường quan tâm, định hướng chiến lược dài hạn, xác lập tầm nhìn KHCN ngành đến 2050 gắn với phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Lãnh đạo đổi mới tư duy nghiên cứu, khuyến khích nghiên cứu đột phá, ứng dụng nhanh vào thực tiễn. Chỉ đạo huy động nguồn lực đa kênh, kết nối ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, hợp tác quốc tế cho KHCN. Giám sát, đánh giá hiệu quả thực chất, đảo đảm sản phẩm KHCN tạo tác động rõ rệt tới đời sống nông dân và tăng sức cạnh tranh của nông sản Việt.