Sáng 10/12, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi). Kết quả cho thấy 428/445 đại biểu có mặt tán thành, đạt tỉ lệ 90,49% tổng số đại biểu Quốc hội.
Trước khi biểu quyết, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo luật.
Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi). Ảnh: Quochoi.vn
Theo Bộ trưởng Thắng, dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) tập trung bổ sung, điều chỉnh một số nội dung mang tính nguyên tắc đối với quy hoạch chi tiết ngành. Các nhóm nội dung chính gồm: Yêu cầu và nguyên tắc quy hoạch; mối quan hệ giữa quy hoạch cấp quốc gia, vùng và tỉnh; hồ sơ quy hoạch; công bố quy hoạch; lưu trữ và chia sẻ dữ liệu quy hoạch; đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch. Những vấn đề chi tiết về lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch chi tiết ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn sẽ do các luật chuyên ngành quy định.
Làm rõ khái niệm quy hoạch chi tiết ngành
Về ý kiến cho rằng khái niệm “quy hoạch chi tiết ngành” còn dễ nhầm lẫn với “quy hoạch ngành”, Bộ trưởng Thắng khẳng định dự thảo luật đã quy định rõ: Quy hoạch chi tiết ngành là bước cụ thể hóa quy hoạch cấp quốc gia, vùng và tỉnh về phương án phát triển, sắp xếp, phân bố không gian cho các ngành kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên. Do đó, nội dung của quy hoạch chi tiết ngành mang tính chi tiết hơn so với quy hoạch ngành. Danh mục quy hoạch chi tiết ngành cũng đã được sửa đổi theo hướng thể hiện rõ nội hàm cụ thể hóa này.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và cơ quan thẩm tra, Chính phủ đã rà soát và chỉnh sửa nội dung quy hoạch vùng tại điều 29 của dự thảo luật nhằm làm rõ hơn vai trò của loại quy hoạch này.
Quy hoạch vùng được xác định là công cụ định hướng phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành và liên tỉnh. Quy hoạch vùng cũng định hướng phát triển hệ thống hạ tầng dùng chung như giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục…
Bộ trưởng Thắng nhấn mạnh: Khái niệm “quy hoạch vùng” trong dự thảo luật đã thể hiện rõ nhiệm vụ “cụ thể hóa định hướng phát triển vùng và liên kết vùng”, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và kết nối giữa các ngành, địa phương trong phạm vi vùng. Trong khi đó, quy hoạch tỉnh chỉ bao quát các phương án phát triển và phân bố nguồn lực trong phạm vi địa bàn tỉnh, liên xã.
Kết quả biểu quyết cho thấy, có 428/445 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) có mặt tham gia biểu quyết (chiếm tỷ lệ 90,49% ĐBQH) tán thành với việc thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi). Ảnh: Quochoi.vn
Thứ tự phê duyệt các loại quy hoạch
Theo Bộ trưởng Thắng, quy hoạch vùng là cần thiết để thực hiện chủ trương “xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia hợp lý, phát huy lợi thế đặc thù của vùng, địa phương; tăng cường liên kết nội vùng và liên vùng”. Đây là định hướng quan trọng đã được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và các nghị quyết của Đảng về phát triển vùng.
Nếu bỏ quy hoạch vùng, nhiều vấn đề liên tỉnh như hạ tầng kết nối, quản lý tài nguyên nước, rừng, đa dạng sinh học… sẽ thiếu cơ chế giải quyết. Điều này có thể dẫn tới lãng phí, kém hiệu quả và thiếu bền vững trong khai thác, quản lý nguồn lực.
Theo dự thảo luật, thứ tự phê duyệt các quy hoạch được sắp xếp như sau: Quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng phải được phê duyệt sau quy hoạch tổng thể quốc gia; quy hoạch tỉnh được phê duyệt sau quy hoạch vùng; quy hoạch chi tiết ngành được phê duyệt sau quy hoạch mà nó cụ thể hóa.
Để bảo đảm tính thống nhất giữa quy hoạch tỉnh và quy hoạch đô thị, nông thôn, dự thảo quy định: quy hoạch chung, quy hoạch phân khu (trong trường hợp không yêu cầu lập quy hoạch chung) sẽ được phê duyệt sau khi quy hoạch tỉnh hoàn thành; thứ tự phê duyệt giữa các cấp độ quy hoạch đô thị, nông thôn tuân thủ theo pháp luật chuyên ngành.















