
Sự trỗi dậy của nông nghiệp hữu cơ (NNHC) tại Đồng Nai bắt nguồn từ sự thay đổi nhận thức của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Khi thị trường ngày càng ưu tiên nông sản sạch, người nông dân mạnh dạn chuyển đổi sang mô hình canh tác bền vững, với chi phí hợp lý.
Tại xã Dầu Giây, ông Phạm Duy Long, Tổ trưởng Tổ hợp tác Bơ Bàu Hàm 2, cùng bà con nông dân đã biến vùng đất sỏi đá kém màu mỡ thành vườn bơ, sầu riêng hữu cơ năng suất cao. Nông dân thay phân hóa học bằng phân compost từ rác hữu cơ, dùng thuốc sinh học chế biến từ tỏi, gừng, ớt để phòng trừ sâu bệnh. Kết quả giúp cho đất khỏe, cây phát triển tốt, năng suất ổn định và tăng dần theo thời gian.
Ông Nguyễn Thanh Phước, nông dân sản xuất giỏi ở xã Dầu Giây chia sẻ: “Chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ không phải điều xa vời, mà bắt đầu từ những hành động cụ thể như ưu tiên dùng phân hữu cơ, chế phẩm sinh học, đồng thời giảm và tiến tới loại bỏ hóa chất độc hại”.


Tư duy sản xuất mới này đang lan tỏa mạnh mẽ, hình thành nhiều mô hình tiêu biểu. Điển hình là vườn bưởi hữu cơ 0,9 ha của hộ ông Nguyễn Văn Tuấn (xã Dầu Giây) hay mô hình HTX Dốc Mơ Farm (xã Gia Kiệm) do anh Hoàng Công Phước điều hành. HTX kết hợp sản xuất nông nghiệp hữu cơ với du lịch sinh thái, hướng đến xây dựng mô hình nông nghiệp gắn với giá trị xã hội.
Khởi đầu từ 2 ha sản xuất theo hướng thuận tự nhiên, không sử dụng hóa chất, đến nay Dốc Mơ Farm đã mở rộng thành hàng chục ha theo mô hình vườn - ao - chuồng, góp phần tạo dựng không gian xanh, môi trường đáng sống. Trang trại trồng đa dạng các loại rau, dược liệu, cây ăn trái, đáp ứng nhu cầu thực phẩm sạch của người tiêu dùng. Song song với sản xuất, HTX còn đầu tư xưởng chế biến nông sản từ nguyên liệu sạch tại chỗ, được thị trường đón nhận tích cực.
Tuy nhiên, “điểm nghẽn” lớn nhất của NNHC là sản xuất nhỏ lẻ, khó đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe, sản phẩm thiếu thương hiệu, thường bị bán rẻ. Để tháo gỡ, Đồng Nai tiên phong kêu gọi doanh nghiệp đầu tư tham gia liên kết chuỗi. Tiêu biểu là hợp tác với Tập đoàn Quế Lâm, triển khai mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn “5 không” (không thuốc diệt cỏ, không thuốc trừ sâu hóa học, không chất kích thích tăng trưởng, không chất bảo quản, không dư lượng độc hại).

Doanh nghiệp hỗ trợ 50% chi phí phân hữu cơ, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn quy trình và bao tiêu đầu ra sản phẩm. Nhờ vậy, nông dân yên tâm sản xuất, tập trung nâng cao chất lượng. Mô hình đã áp dụng thành công trên nhiều loại cây trồng chủ lực như bưởi, sầu riêng, măng cụt. Theo ông Nguyễn Duy Cường, Giám đốc HTX Chôm chôm sầu riêng Lạc Sơn, việc liên kết với Quế Lâm đã mở ra hướng đi bền vững cho hơn 120 ha sầu riêng của hợp tác xã.
Thực tiễn tại Đồng Nai cho thấy, việc đầu tư phát triển NNHC quy mô lớn đòi hỏi sự cộng hưởng của cả hệ sinh thái, gồm nông dân thay đổi tư duy, trực tiếp sản xuất; doanh nghiệp là hạt nhân đầu tư công nghệ, vốn, thị trường; chính quyền kiến tạo chính sách, làm cầu nối. Mô hình liên kết “ba nhà” (Nhà nông – Nhà nước – Doanh nghiệp) đã chứng minh hiệu quả, không chỉ khắc phục sản xuất manh mún mà còn nâng tầm thương hiệu nông sản Đồng Nai dựa trên chất lượng và uy tín.

Đồng Nai không chỉ dừng lại ở việc thay đổi tư duy sản xuất, mà đang bước vào giai đoạn chiến lược: chuẩn hóa quy trình, mở rộng vùng chuyên canh NNHC để hướng đến những thị trường khó tính. Đây được coi là con đường tất yếu nhằm nâng cao giá trị nông sản và xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Điểm nhấn quan trọng là sự dịch chuyển từ sản xuất dựa vào kinh nghiệm sang canh tác theo quy trình kỹ thuật chuẩn hóa, được kiểm soát chặt chẽ. Tất cả các khâu, từ cải tạo đất, chọn giống, quản lý dinh dưỡng đến thu hoạch, bảo quản… đều được giám sát nghiêm ngặt. Nhờ vậy, nhiều loại cây trồng chủ lực như chuối, bưởi, ca cao, điều đã được cấp mã số vùng trồng, là tấm “hộ chiếu” quan trọng để nông sản Đồng Nai bước ra thị trường quốc tế.
Ông Lý Minh Hùng, Giám đốc HTX liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản sạch Thanh Bình (xã Bàu Hàm) cho biết: “Việc dùng phân hữu cơ vi sinh và chế phẩm sinh học đã trở thành quy trình cốt lõi. Hợp tác xã chúng tôi còn chủ động phối hợp xây dựng mã số vùng trồng, hệ thống truy xuất nguồn gốc, tạo niềm tin cho nhà nhập khẩu”.
Nhiều mô hình sáng tạo đã minh chứng hiệu quả. Tổ hợp tác Bưởi Ý Hồng (xã Hưng Thịnh) tự sản xuất thuốc BVTV sinh học từ tỏi, ớt, gừng; mô hình trồng táo, ớt trong nhà lưới của bà Nguyễn Thị Hằng (xã Trảng Bom) cũng gần như loại bỏ hoàn toàn thuốc hóa học, tạo sản phẩm an toàn, được thị trường đón nhận ngay tại vườn.


Theo ông Phạm Thành Lập, tổ trưởng tổ hợp tác Ca cao Trung Hòa (xã Hưng Thịnh), sau vài năm canh tác hữu cơ, đất tơi xốp hơn, cây khỏe, năng suất cải thiện, quan trọng nhất là sản phẩm đã có doanh nghiệp bao tiêu, chấm dứt nỗi lo của bà con nông dân cứ được mùa mất giá.
Song hành cùng với nông dân, chính quyền Đồng Nai đóng vai trò kiến tạo, quy hoạch vùng chuyên canh hữu cơ quy mô lớn cho cây bưởi, chuối; thúc đẩy tiêu thụ qua hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích và kênh xuất khẩu; tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật; đẩy mạnh liên kết “bốn nhà” (Nhà nước – Nhà nông – Doanh nghiệp – Nhà khoa học) để vừa đảm bảo đầu vào, vừa ổn định đầu ra.
Phát triển NNHC không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà còn là “cuộc cách mạng” trong tư duy kinh tế nông nghiệp. Đồng Nai đặt mục tiêu mở rộng diện tích, nâng cao năng lực giám sát chất lượng và chuyên nghiệp hóa xúc tiến thương mại. Dù vậy, thách thức vẫn hiện hữu, khi chi phí đầu tư ban đầu lớn, kiến thức thị trường quốc tế còn hạn chế, thương hiệu nông sản hữu cơ quốc gia chưa thật sự nổi bật. Điều này đòi hỏi sự đồng hành bền bỉ, quyết liệt từ chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và đặc biệt là người nông dân.


Trong bối cảnh đô thị hóa thu hẹp quỹ đất nông nghiệp ở nhiều địa phương, Đồng Nai nổi lên như một “miền đất hứa” cho các nhà đầu tư tìm kiếm vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn. Sở hữu nền tảng vững chắc về vùng cây trồng và hạ tầng công nghiệp, tỉnh Đồng Nai đang đứng trước cơ hội lịch sử để trở thành trung tâm chế biến sâu nông sản hàng đầu cả nước.
Sau quy hoạch sát nhập, Đồng Nai có gần 1,1 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó hơn 600 nghìn ha cây ăn trái và cây công nghiệp lâu năm, nguồn nguyên liệu dồi dào, ổn định cho công nghiệp chế biến. Với vị trí trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai thuận lợi kết nối với TP. Hồ Chí Minh, hệ thống cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải và mạng lưới khu công nghiệp hiện đại. Đây là lợi thế mà ít địa phương nào có được, giúp rút ngắn chi phí vận chuyển và mở rộng cửa ngõ xuất khẩu nông sản.


Không chỉ dừng lại ở vai trò “vựa nguyên liệu”, Đồng Nai đang định hình chiến lược phát triển công nghiệp chế biến theo chiều sâu, chuyển sản phẩm từ dạng thô sang chế biến đạt chuẩn xuất khẩu, gia tăng giá trị nông sản. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xem là “vườn ươm” khuyến khích doanh nghiệp nhỏ, HTX đầu tư chế biến, nâng tầm thương hiệu địa phương.
Tuy nhiên, dòng vốn vào chế biến nông sản vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Các chuyên gia cho rằng, để tạo đột phá, Đồng Nai cần xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư chuyên biệt, thay vì kêu gọi chung chung. Trong đó, phải xác định rõ nhóm ngành hàng thế mạnh như thịt, trái cây, cà phê, điều, đồng thời thiết kế gói ưu đãi riêng cho từng lĩnh vực.
Giải pháp quan trọng là chủ động tiếp cận các nhà đầu tư trong và ngoài nước có công nghệ chế biến sâu, tránh dàn trải nguồn lực. Cùng với đó, tỉnh cần mở ra một “đại lộ thông thoáng” cho doanh nghiệp: đơn giản hóa thủ tục hành chính, ưu đãi về đất đai, kết nối trực tiếp với vùng nguyên liệu, phát triển hạ tầng logistics.
Với những bước đi chiến lược, Đồng Nai đang dần khẳng định vị thế điểm đến hấp dẫn cho đầu tư chế biến nông sản, tạo nền tảng vững chắc để nâng cao giá trị nông sản Việt trên thị trường quốc tế.

Phát triển NNHC không chỉ là xu hướng mà đã trở thành nhiệm vụ đột phá trong chiến lược phát triển của Đồng Nai. Vượt qua thách thức về kỹ thuật và thị trường, địa phương đang từng bước hình thành các vùng sản xuất hữu cơ quy mô lớn, tạo nền tảng vững chắc để đón dòng vốn đầu tư vào công nghiệp chế biến sâu.
Hiện Đồng Nai đã có nhiều diện tích được chứng nhận hữu cơ quốc tế, như 2,5 ha hồ tiêu tại HTX Nông nghiệp Lâm San và 3,3 ha sầu riêng tại xã Xuân Quế. Ngoài ra, tỉnh cũng đang nhân rộng các mô hình quy mô lớn: Gần 18 ha hồ tiêu hữu cơ tại xã Sông Ray, 100% hộ áp dụng công nghệ vi sinh bản địa (IMO), trong đó một số hộ đã đạt chuẩn hữu cơ châu Âu.
Theo Hội Nông dân xã Lâm San, giai đoạn đầu bà con chủ yếu tự tìm tòi sản xuất, rất cần sự hỗ trợ chuyên môn để chuẩn hóa quy trình. Việc hình thành vùng chuyên canh tập trung được xem là điều kiện bắt buộc để đảm bảo sản lượng phục vụ xuất khẩu. Nhận thức rõ nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế là “chìa khóa” thu hút đầu tư, Đồng Nai đang mở cửa đón doanh nghiệp chế biến.
Đặng Kim Khôi, chuyên gia chính sách nông nghiệp, nhận định: “Đồng Nai có nhiều lợi thế vượt trội nhưng chưa khai thác hết tiềm năng chế biến. Trong bối cảnh hội nhập, tỉnh cần đặt mục tiêu trở thành trung tâm chế biến các cây công nghiệp chủ lực như điều, cà phê, tiêu... không chỉ của Việt Nam mà còn của thế giới”.

Để hiện thực hóa tầm nhìn này, Đồng Nai được khuyến nghị cần tập trung phát huy vai trò hiệp hội ngành hàng, xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến; khai thác chương trình OCOP làm bệ đỡ; đồng thời thu hút nhà đầu tư công nghệ cao gắn trực tiếp với vùng nguyên liệu hữu cơ.
Tính đến tháng 9/2025, Đồng Nai đã có 481 sản phẩm OCOP, trong đó 7/11 sản phẩm đạt OCOP 5 sao cấp quốc gia, tất cả đều là sản phẩm chế biến sâu từ hạt điều. Đây là minh chứng rõ ràng cho chất lượng, công nghệ và vị thế ngày càng vững chắc của tỉnh Đồng Nai trên bản đồ chế biến nông sản Việt Nam.
Kiên trì xây dựng vùng sản xuất hữu cơ không chỉ giúp nông dân nâng cao thu nhập, bảo vệ môi trường, mà còn tạo ra nguồn nguyên liệu đẳng cấp quốc tế. Đây chính là “tấm vé mời” để Đồng Nai thu hút tập đoàn lớn, đưa nông sản địa phương vươn xa toàn cầu.
Với nền tảng vùng nguyên liệu chất lượng cao và định hướng chế biến sâu, Đồng Nai đang tiến những bước chắc chắn để trở thành trung tâm nông sản quốc tế, nơi hội tụ sản xuất hữu cơ, công nghiệp chế biến hiện đại và thương hiệu nông sản giá trị gia tăng cao.


Xác định phát triển NNHC là một trong bốn nhiệm vụ đột phá của nhiệm kỳ 2020-2025, Đồng Nai đang thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Nhưng để biến mục tiêu này thành hiện thực là hành trình đầy thách thức.
Ngoài những khó khăn chung như chi phí đầu tư cao, thị trường chưa ổn định, thủ tục chứng nhận phức tạp, Đồng Nai còn chịu sức ép đặc thù, như tốc độ công nghiệp hóa nhanh, nguy cơ ô nhiễm đất, nước, không khí thường trực. Điều này buộc các quy trình sản xuất hữu cơ tại địa phương phải nghiêm ngặt hơn so với nhiều vùng khác.
Thực tế, đa số mô hình sản xuất hữu cơ hiện nay vẫn nhỏ lẻ, manh mún, khó tạo chuỗi giá trị lớn. Liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp còn lỏng lẻo; sản phẩm hữu cơ nhiều khi vẫn phải bán như nông sản thường, chưa có giá trị vượt trội. Dù vậy, làn sóng chuyển đổi vẫn lan tỏa mạnh mẽ từ cơ sở.

Điển hình như mô hình trồng bưởi hữu cơ và du lịch sinh thái gắn với sản xuất sạch của HTX Dốc Mơ Farm, được Hiệp hội NNHC Việt Nam vinh danh. Đặc biệt, việc ứng dụng chế phẩm sinh học (IMO) cho hơn 250 hộ dân đã mang lại hiệu quả kép: loại bỏ thuốc diệt cỏ, giảm thuốc BVTV, tiết kiệm khoảng 20% chi phí nhờ tự ủ phân hữu cơ và chế thuốc sinh học từ gừng, sả, ớt.
Ông Nguyễn Văn Thắng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Nai, khẳng định: “Ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Nai sẽ tiếp tục ưu tiên nhân rộng các mô hình điểm để lan tỏa, đồng thời xây dựng đội ngũ nòng cốt, chất lượng cao cho lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ của tỉnh”.
Hành trình NNHC của Đồng Nai đã có những bước đi đầu tiên đầy ấn tượng, tạo ra điểm sáng, nhưng để NNHC trở thành phong trào bền vững, Đồng Nai cần một cuộc “đột phá” từ cấp hoạch định chính sách. Chỉ khi có bệ đỡ chính sách đủ mạnh, tỉnh mới thu hút được doanh nghiệp đầu tư, hình thành chuỗi giá trị khép kín, lan tỏa sản xuất sạch trên diện rộng.
Đó cũng chính là con đường để Đồng Nai hiện thực hóa khát vọng trở thành trung tâm nông nghiệp hữu cơ và chế biến sâu hàng đầu cả nước - nơi nông sản không chỉ an toàn, bền vững, mà còn đủ sức chinh phục thị trường quốc tế.
