GS Nguyễn Xiển: Người định danh khí hậu miền Bắc, vẽ bản đồ khí hậu Việt Nam

"Ông là một nhà khoa học chân chính, đam mê, yêu khoa học, là người đặt nền móng đầu tiên cho ngành khí tượng thủy văn Việt Nam”, GS Nguyễn Đức Ngữ, Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn (từ năm 1991-1999), nhận định về người thầy, người lãnh đạo thế hệ đi trước của ngành “đếm gió, đo mưa”, GS Nguyễn Xiển.

 

 

Trong căn phòng nhỏ giữa làng cổ yên tĩnh, GS Nguyễn Đức Ngữ ôn lại những kỷ niệm về người thầy, người lãnh đạo của mình - GS Nguyễn Xiển với phóng viên Báo Nông nghiệp Môi trường. 

GS Nguyễn Xiển sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học có tiếng của xứ Nghệ. Từng du học tại Pháp, khi về nước, ông không ra làm quan cho triều đình Huế mà một lòng đi theo cách mạng. Giáo sư giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Quốc hội và Chính phủ song phần lớn cuộc đời ông dành cho ngành khí tượng thủy văn. Ông làm công tác khí tượng thủy văn từ năm 1937, là người Việt Nam đầu tiên được cử làm Giám đốc Đài thiên văn Phù Liễn (thực chất là cơ sở Khí tượng Đông dương lúc bấy giờ).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm làm Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam. Những năm đầu của cuộc kháng chiến, công việc chủ yếu là chuẩn bị đội ngũ cán bộ, tài liệu giảng dạy về khí tượng. Bằng uy tín cá nhân, ông đã kêu gọi, thu dung được gần chục cán bộ trước đây công tác tại Đài Phù Liễn từ thời Pháp. Họ chính là những hạt nhân đầu tiên để vận hành hoạt động của các trạm quan trắc dù còn rất sơ khai.

Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhiệm vụ quan trọng đầu tiên mà GS Nguyễn Xiển đề ra là tiếp tục duy trì hoạt động của các trạm quan trắc, đồng thời nhanh chóng khôi phục và phát triển mạng lưới quan trắc trên toàn miền Bắc. Với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã nhanh chóng phục hồi các trạm quan trắc khí tượng, khí hậu, thủy văn, khí tượng cao không, khí tượng nông nghiệp, đo mưa… với nhiều máy móc thông dụng. Cũng giai đoạn này, thành lập các Đài Khí tượng thủy văn các tỉnh để quản lý mạng lưới trạm phục vụ dự báo ở các địa phương nhằm phục vụ cho công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế, phòng chống thiên tai.

Song song với việc phát triển mạng lưới là đào tạo đội ngũ quan trắc viên, dự báo viên. Năm 1955, Giáo sư tổ chức và đích thân tham gia giảng dạy các lớp quan trắc khí tượng đầu tiên ở Hà Nội. Dưới sự lãnh đạo của Giáo sư, lần lượt các Đài Khí tượng thủy văn tại các địa phương được thành lập, gây dựng: Yên Bái, Lào Cai.

 

Ông đề ra phương châm của ngành khí tượng thủy văn ngay từ thời điểm đó, là “Lấy phục vụ làm cương lĩnh, lấy nông nghiệp làm trọng điểm phục vụ”, chủ trương kết hợp dự báo thời tiết bằng phương pháp synop với kinh nghiệm dân gian và quan trắc vật hậu. Ông rất quan tâm đến việc thu nhập và chỉnh lý số liệu trên toàn mạng lưới, thường xuyên đi kiểm tra công tác quan trắc ở các Đài, Trạm.

Năm 1957 - năm Vật lý Địa cầu Quốc tế lần đầu tiên Việt Nam tham gia, ông được Chính phủ cử làm Chủ tịch Ủy ban năm Vật lý địa cầu Việt Nam. Cũng trong năm này, GS Nguyễn Xiển đã hợp tác cùng Viện Hàn lâm khoa học Ba Lan. Các chuyên gia của Ba Lan giúp chúng ta xây dựng và trang bị 2 Đài Vật lý địa cầu ở Phù Liễn (Kiến An) và Sa Pa (Lào Cai) với đầy đủ trang bị máy móc khí tượng, trở thành 2 cơ sở quan trắc và nghiên cứu hiện đại nhất Việt Nam lúc bấy giờ.

Theo GS Nguyễn Đức Ngữ, giai đoạn những năm 1970, vấn đề định danh khí hậu miền Bắc Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi. Nguyên nhân là do một vài mùa đông trong 2-3 năm liên tiếp kéo dài và lạnh bất thường làm cây trồng bị chết. Nhiều nhà khoa học địa lý cho rằng miền Bắc là nền khí hậu á nhiệt, do đó cần thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đề xuất Chính phủ đưa lúa mỳ, khoai tây thay cho trồng lúa, khoai lang; chăn nuôi cừu ở ngoài Quảng Ninh… Kết quả: lúa mỳ không ra bông, cừu nuôi ở Quảng Ninh chết, không cho thu lông như mong muốn. Và, cuộc tranh luận kéo dài.

“Trong khi đó, GS Nguyễn Xiển vẫn kiên trì quan điểm khí hậu miền Bắc là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Quan điểm này chính là thái độ khoa học của ông, rất rõ ràng, quyết liệt, quyết đoán. Giáo sư đích thân chỉ đạo chuẩn bị Hội nghị bàn về bản chất khí hậu miền Bắc vào năm 1976 tại Sa Pa do ông chủ trì. Tôi được Giáo sư yêu cầu chuẩn bị một tham luận về nội dung này.

Và những nhân tố hình thành và bản chất khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Bắc được làm rõ tại hội nghị. Điều này liên quan tới việc hình thành cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp của miền Bắc, từ đó tạo nên sự ổn định, nhất quán trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là một trong những cống hiến quan trọng của GS Nguyễn Xiển”, GS Nguyễn Đức Ngữ khẳng định.

Một hoạt động khoa học trong ngành được Giáo sư thúc ép hoàn thành trong giai đoạn ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc thời kỳ những năm 1967-1968, đó là nghiên cứu, biên soạn đặc điểm khí hậu địa phương.

Tất cả các cán bộ nghiên cứu khí hậu của Đài Khí tượng Trung ương được chia mỗi người về một tỉnh, từ Lạng Sơn, Hà Giang, Lai Châu đến Quảng Bình, Quảng Trị. Sau khi khảo sát và biên soạn xong đặc điểm khí hậu của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, GS Ngữ được ông Xiển yêu cầu tiếp tục khảo sát, nghiên cứu đặc điểm khí hậu của tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Đó là những ngày tháng sôi nổi nhưng cũng vô cùng nguy hiểm bởi giặc Mỹ điên cuồng phá hoại miền Bắc, chiến tranh ác liệt ở miền Nam.

“Ông cũng là người rất khắt khe, nguyên tắc trong khoa học, yêu cầu các số liệu phải chuẩn, thực tế, chính xác, không được phép bịa, làm giả số liệu. Đã có lần, Giáo sư kỷ luật một kỹ thuật viên không trực trạm, tự bịa số liệu. Hay như cán bộ nghiên cứu khí hậu ở tỉnh nào, bản báo cáo phải có xác nhận và được Ủy ban nhân dân tỉnh xác nhận, thông qua, như vậy ông mới chấp nhận. Nhờ thế, tất cả các tỉnh ở miền Bắc đều có tài liệu đặc điểm khí hậu tỉnh để phục vụ yêu cầu sản xuất và chiến đấu ở địa phương.

Tiếp đó, ông chỉ đạo nghiên cứu, biên soạn đặc điểm khí hậu miền Nam, đặc điểm khí hậu của Lào, Campuchia để phục vụ cho yêu cầu chiến đấu và hậu cần của quân và dân ở miền Nam; tổ chức các đơn vị Khí tượng Thủy văn vào miền Nam phục vụ cho yêu cầu sản xuất, chiến đấu ở vùng giải phóng. Sâu xa hơn, đó là chuẩn bị cho việc tiếp quản các cơ sở khí tượng khi đất nước thống nhất. Nhờ vậy, công tác dự báo khí tượng thủy văn ở miền Nam sau hòa bình lập lại được duy trì liên tục, không bị đứt gãy, từ đó tiến tới thống nhất hoạt động khí tượng thủy văn trong cả nước”, GS Nguyễn Đức Ngữ kể lại.

Là học trò khóa 3 đào tạo kỹ thuật viên, quan trắc viên ngành khí tượng thủy văn vào năm 1955 do GS Nguyễn Xiển mở và trực tiếp giảng dạy, ông Nguyễn Đức Ngữ đến với ngành một cách tình cờ, nhưng cơ duyên giữ ông ở lại, gắn bó cho tới khi về hưu.

Ngay sau khi hoàn thành khóa học, tháng 4/1956, ông được cử lên Yên Bái để quan trắc khí hậu phục vụ một nhiệm vụ quan trọng: chuyên cơ của Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô sang thăm Việt Nam đi qua địa phận Yên Bái. Lúc này Yên Bái chưa có trạm quan trắc. Nhiệm vụ của ông Ngữ là đo gió, đếm mây, đưa các số liệu quan trắc được báo về Hà Nội.

Đến Yên Bái, ông chọn địa điểm là Ty Bưu điện tỉnh với tính toán, khi có số liệu sẽ được nhân viên bưu điện đánh Morse ngay gửi về Thủ đô. Không có thiết bị, ông Ngữ vào trong làng tìm mua một một cây tre cao 10 m, về bạt hết lá rồi buộc hai chiếc que hình chữ thập trên ngọn, sao cho chếch sang vừa 4 hướng. Sau đó, trồng cây tre ở ngay giữa sân của Ty Bưu điện, lấy la bàn căn chỉnh xác định đúng 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Trên ngọn tre buộc dải lụa để xác định hướng gió.

"Tốc độ gió thì xác định bằng phương pháp 'bô-pho' (Beaufort); bên dưới đặt thùng đo mưa, thế là thành trạm khí tượng, kịp thời có số liệu cung cấp cho đường bay của chuyên cơ chở lãnh đạo Liên Xô sang thăm Việt Nam", GS. Nguyễn Đức Ngữ nhớ lại.

Nhiệm vụ đầu tiên ông Ngữ hoàn thành. Tiếp đó, ông được GS Nguyễn Xiển điều về Đài Vật lý Địa cầu Phù Liễn (Hải Phòng) để tham gia Năm Vật lý địa cầu Quốc tế cùng với chuyên gia Ba Lan. Cuối năm 1959, ông Ngữ được thầy Xiển tin tưởng giao cho đứng lớp, dù khi đó ông vẫn chỉ là kỹ thuật viên, quan trắc viên vừa hoàn thành khóa 6 tháng của thầy Xiển.

“Thầy Xiển bảo tôi: anh cứ phụ trách giảng dạy đã, rồi sẽ bố trí, sắp xếp đi học lên cao hơn nhưng chưa thể ngay được. Thế là, tôi trình độ sơ cấp mà vẫn được giảng dạy cho anh em, đào tại cán bộ kế cận phục vụ cho các trạm quan trắc sẽ thành lập sau này. Năm 1962, tôi được thầy cử đi học Đại học ở Trung Quốc, tiếp đó nghiên cứu sinh tại Ba Lan. 

Về sau tôi mới nhận ra một điều, đó là thầy Xiển thử thách, rèn luyện tôi. Tôi cảm thấy vinh dự là một học trò của GS Nguyễn Xiển từ buổi đầu tiên chập chững vào ngành và cũng là bước vào đời khi chưa đầy 18 tuổi. Tôi rất biết ơn Giáo sư. Tôi học được nhiều từ ông, nhất là thái độ và trách nhiệm đối với công tác nói chung, đối với khoa học nói riêng”, người học trò xuất sắc của GS Nguyễn Xiển chia sẻ.

"Tôi còn nhớ một lần tới thăm Giáo sư tại nhà sau khi ông đã nghỉ hưu. Giáo sư tâm sự với tôi rằng: Ngành ta có nhiều cán bộ có đóng góp cho việc xây dựng và phát triển ngành, nhưng trước đây do hoàn cảnh, tôi chưa chú ý lắm đến việc khen thưởng. Nay anh nên chú ý đề nghị Nhà nước khen thưởng xứng đáng cho ngành và cán bộ, công nhân viên trong ngành. Việc này tôi đã nói với Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh. Qua câu chuyện đó, tôi càng thấm thía hơn, rằng GS Nguyễn Xiển là một người lãnh đạo mẫu mực, rất nghiêm khắc trong công tác chuyên môn song cũng rất mực yêu thương cán bộ” - GS Nguyễn Đức Ngữ bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm về người thầy.

Kiên Trung
Trương Khánh Thiện
Kiên Trung
Đoàn Dũng
Xem thêm