Thiếu chuyên gia chuyên môn sâu tư vấn cho Chủ tịch tỉnh xã lũ
Theo GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, đợt mưa lũ cực đoan vừa qua được thống kê là loại hình thiên tai “vài chục năm mới xảy ra một lần”. Điểm nguy hiểm nhất không chỉ nằm ở cường độ mưa rất lớn mà còn ở thời gian kéo dài liên tục từ 2-3 ngày.
“Trong lĩnh vực thủy văn, mưa lũ kéo dài là tình huống đặc biệt khó xử lý. Khi mưa nhiều ngày, hồ chứa và các vùng trũng đều đã đầy, rừng cũng không còn khả năng hấp thụ. Lượng nước mưa gần như đổ xuống lưu vực bao nhiêu thì chảy ra sông bấy nhiêu, tạo ra các đỉnh lũ lớn liên tiếp. Khi một đợt mưa kết thúc, đợt tiếp theo lại tới, hiện tượng này gọi là "lũ kép", chưa hết lũ này đã phải đối mặt với lũ khác”, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng diễn giải.
Theo GS.TS. Nguyễn Quốc Dũng, quy trình vận hành các hồ chứa lớn được xây dựng dựa trên mô hình “lũ đơn” từ trước đến giờ đã không còn phù hợp với hình thái "lũ kép" hiện nay. Ảnh: Tùng Đinh.
Theo chuyên gia, hiện nay, quy trình vận hành các hồ chứa lớn được xây dựng dựa trên mô hình “lũ đơn”. Nhưng với tổ hợp thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu, “lũ kép” xuất hiện ngày càng nhiều khiến phương pháp tính toán truyền thống không còn phù hợp. Nhiều hồ chứa được thiết kế theo tiêu chuẩn lũ tần suất xuất hiện 500 năm, nay lại phải đối mặt với sự kiện vượt xa giới hạn thiết kế và khả năng tính toán trước đây. Nói cách khác, các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành chưa kịp “bắt” được mức độ cực đoan mới của khí hậu.
Xung quanh câu chuyện vận hành hồ chứa, nhiều ý kiến đặt vấn đề trách nhiệm của thủy điện. GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho rằng điểm nguy hiểm nhất là “ai cũng đúng” khi chủ hồ thủy điện khẳng định vận hành đúng quy trình, Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự cũng nói đã chỉ đạo đúng quy định. Nhưng bản thân quy trình là do con người xây dựng và khi điều kiện tự nhiên thay đổi, quy trình không theo kịp, rủi ro vẫn xảy ra.
Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ lịch sử vào ngày 19/11/2025 vừa qua. Ảnh: Hồng Ánh.
Đồng thời, đại diện Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cũng cho biết, hiện lực lượng tư vấn cho Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo xả lũ trước khi xảy ra mưa lớn chủ yếu là cán bộ của Sở Nông nghiệp và Môi trường hoặc Sở Công Thương, vốn không có chuyên gia chuyên sâu về thủy văn, động lực học dòng chảy hay vận hành hồ chứa. Dù dự báo khí tượng thủy văn đã cảnh báo mưa lớn nhưng thiếu một bộ phận tư vấn độc lập, có chuyên môn cao để phân tích kịch bản, tính toán rủi ro và đưa ra khuyến nghị vận hành phù hợp. Đây chính là “khoảng trống” lớn nhất trong vận hành hồ chứa hiện nay.
Chúng ta chưa nghĩ tới việc thuê dịch vụ để "bắt" lũ cho kịp thời?
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho rằng, những bất cập vừa qua không chỉ đến từ mưa lũ cực đoan mà còn xuất phát từ chính cách thiết kế và vận hành hồ chứa hiện nay.
Theo quy trình, đầu mùa mưa các hồ phải hạ mực nước để tạo dung tích đón lũ. Giữa mùa phải xả nước với nguyên tắc “không lớn hơn lưu lượng đến hồ”. Cuối mùa tích nước lên mực nước dâng bình thường. Tuy nhiên, đợt lũ vừa xảy ra lại xuất hiện vào cuối vụ, khi các hồ đã tích đầy nước để chuẩn bị cho mùa phát điện và cấp nước khiến dung tích phòng lũ gần như không còn.
Hồ Sông Cái (Khánh Hòa) xả lũ với lưu lượng 2.045,85 m3/giây vào ngày 20/11/2025. Ảnh: V.T.
“Đặc biệt, các hồ thủy điện do doanh nghiệp đầu tư nên ưu tiên hàng đầu vẫn là hiệu quả phát điện. Khi được yêu cầu hạ mực nước đón lũ, nhiều đơn vị thường chần chừ bởi nếu sau đó mưa không xuất hiện, họ sẽ thiếu nước để phát điện, chịu thiệt hại kinh tế. Điều này từng xảy ra tại hồ Hòa Bình, khi xả đáy vào tháng 10/2024 khiến mực nước giảm mạnh, không đủ điều kiện phát điện và chủ đầu tư bị xử phạt vì thiếu công suất”, chuyên gia chỉ ra bất cập.
Ngoài ra, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho rằng quy trình vận hành hiện nay cũng bộc lộ sự thiếu linh hoạt. Ví dụ, quy trình cho phép xả trong khoảng 0-5.000 m3/s, một khoảng khá rộng. Buổi sáng, chủ hồ có thể chỉ xả vài trăm m3/s. Đến chiều, lũ về mạnh, họ nâng lên 4.000 m3/s, tuy hoàn toàn “đúng quy trình” nhưng người dân hạ du không kịp chạy lụt.
“Vấn đề nằm ở chỗ quy trình đang mang tính hành chính, chưa dựa trên phân tích rủi ro theo thời gian thực”, ông Dũng nhấn mạnh.
Về vấn đề này, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho biết, ông từng kiến nghị mô hình tổ chức tương tự Nhật Bản và Trung Quốc, nơi có Cục Thủy văn hoặc Văn phòng Thủy văn trực 24/7 trong mùa lũ. Nếu chưa thể thành lập đơn vị chuyên trách, Việt Nam có thể thuê dịch vụ tư vấn, xã hội hóa công tác phân tích - dự báo - khuyến nghị vận hành.
“Không làm được thì phải thuê. Chúng ta chưa từng nghĩ tới việc thuê dịch vụ để ‘bắt’ lũ cho kịp thời”, ông Dũng nói.
Giải pháp “mua dung tích phòng lũ” được đề xuất nhằm dung hòa giữa an toàn hạ du và lợi ích kinh tế của chủ hồ. Ảnh: Ngọc Thơm.
Trong bối cảnh đó, giải pháp “mua dung tích phòng lũ” được đề xuất nhằm dung hòa giữa an toàn hạ du và lợi ích kinh tế của chủ hồ. Ví dụ, nếu hồ còn 70-80 triệu m3 dung tích nhưng dự báo cần 200 triệu m3 để đón đợt mưa tới, cơ quan quản lý có thể yêu cầu xả trước. Nếu lũ thực tế nhỏ hơn dự báo, phần nước đã xả gây mất khả năng phát điện sẽ được bù từ Quỹ Phòng tránh thiên tai. Cơ chế này cho phép tính toán chính xác thiệt hại cho từng công trình và hỗ trợ chi trả minh bạch, tạo động lực để các chủ hồ chủ động hạ mực nước sớm thay vì chần chừ vì lo rủi ro tài chính.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam Nguyễn Quốc Dũng, chỉ khi có cơ chế đủ mạnh, quy trình đủ linh hoạt và hệ thống tư vấn đủ chuyên sâu, việc vận hành hồ chứa mới có thể theo kịp các biến động cực đoan do biến đổi khí hậu.















