Tại Phiên toàn thể Hội nghị khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc 2025 ngày 12/9 do Bộ NN-MT chỉ đạo tổ chức, các chuyên gia hàng đầu đã cùng nhau chia sẻ những góc nhìn sâu sắc về thực trạng, xu hướng và định hướng phát triển cho ngành nông nghiệp với ba trụ cột chính: Công nghệ bảo quản, chế biến; nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ xanh.

Hội nghị khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc 2025. Ảnh: Linh Linh.
“Chìa khóa vàng” nâng cao giá trị nông sản
Theo PGS.TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, mặc dù đã có những bước tiến đáng kể, công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp tại Việt Nam vẫn đối mặt nhiều hạn chế. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch vẫn còn cao, đặc biệt đối với rau củ quả. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc áp dụng công nghệ còn rời rạc, thiếu đồng bộ và không phù hợp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún.
Để giải quyết vấn đề này, PGS.TS Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh sự cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ đồng bộ từ khâu thu hoạch đến chế biến. Cần tập trung vào việc phát triển các loại máy móc, thiết bị có công suất phù hợp với điều kiện đồng ruộng và quy mô sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt là các công đoạn tự động hóa trong sơ chế và bảo quản.
"Các máy móc hiện tại thường có công suất nhỏ, không thể đáp ứng nhu cầu sản xuất lớn, do đó dẫn đến tình trạng thiếu lao động thời vụ và hiệu suất thấp. Chúng ta cần phát triển các giải pháp cơ giới hóa tích hợp, ví dụ như hệ thống máy trồng và thu hoạch hành, tỏi đã được nghiên cứu tại Viện để giải phóng sức lao động, giảm chi phí và nâng cao công suất hoạt động", ông Tuấn chia sẻ.

PGS.TS Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ đồng bộ từ khâu thu hoạch đến chế biến sau thu hoạch. Ảnh: Minh Hoàng.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP hay ISO 22000 được xem là yếu tố sống còn, không chỉ giúp bảo đảm an toàn thực phẩm mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, PGS.TS Phạm Anh Tuấn cho rằng phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, xây dựng chuỗi giá trị khép kín, gắn kết chặt chẽ từ khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ nhằm tối ưu hóa hiệu quả và giảm thiểu thất thoát.
Song song đó, việc nâng cao năng lực cho nông dân cũng hết sức quan trọng thông qua các chương trình đào tạo, hướng dẫn sử dụng máy móc hiện đại và áp dụng quy trình sản xuất an toàn, bền vững. “Sự kết hợp hài hòa giữa công nghệ, quản lý và nguồn nhân lực sẽ tạo nền tảng vững chắc để nâng cao chất lượng, giảm lãng phí và tăng khả năng cạnh tranh cho nông sản Việt Nam”, PGS.TS Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh.
Biến phế phụ phẩm thành tài nguyên
Mở rộng thêm về một hướng đi mới, TS Nguyễn Anh Phong, chuyên gia của Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường mang đến một góc nhìn đầy tiềm năng về mô hình nông nghiệp tuần hoàn. Đây không chỉ là một xu hướng mà trên hết còn là giải pháp tất yếu để phát triển bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tạo ra những dòng sản phẩm, giá trị mới.

TS Nguyễn Anh Phong, chuyên gia của Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ về mô hình nông nghiệp tuần hoàn. Ảnh: Minh Hoàng.
Theo TS Nguyễn Anh Phong, nông nghiệp Việt Nam với đặc thù sản xuất lúa, rau, củ, quả, chăn nuôi và thủy sản tạo ra một lượng lớn phế phụ phẩm. Nếu không được xử lý hiệu quả, chúng sẽ trở thành nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ngược lại, nếu được tận dụng, chúng sẽ là "mỏ vàng" để phát triển các sản phẩm sinh học, phân bón hữu cơ, thức ăn chăn nuôi hoặc năng lượng sinh học.
"Tiềm năng phát triển nông nghiệp tuần hoàn của Việt Nam là vô cùng lớn. Thay vì vứt bỏ rơm rạ sau thu hoạch, chúng ta có thể dùng để trồng nấm, làm thức ăn cho gia súc. Hay thay vì xả thải chất thải chăn nuôi, chúng ta có thể tạo ra biogas để phát điện hoặc dùng làm phân bón hữu cơ chất lượng cao", TS Phong phân tích.
Để hiện thực hóa tiềm năng phát triển nông nghiệp tuần hoàn, ông Phong nhấn mạnh cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, về cơ chế, chính sách, Nhà nước cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng, tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã mạnh dạn đầu tư vào công nghệ xử lý phế phụ phẩm, qua đó phát triển những sản phẩm tuần hoàn có giá trị.
Tiếp đến, ở khía cạnh công nghệ và tài chính, cần đẩy mạnh cung cấp các gói hỗ trợ tín dụng, ưu đãi thuế cho các dự án, đồng thời ứng dụng tiến bộ khoa học để biến phế phụ phẩm thành các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.

Phụ phẩm nông nghiệp là nguồn tài nguyên quý. Ảnh: Hoàng Vũ.
Cuối cùng, ông Phong đề xuất xây dựng các mô hình điểm tại một số địa phương, lấy đó làm điển hình để nhân rộng trên phạm vi toàn quốc, góp phần thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn trở thành hướng đi bền vững cho Việt Nam.
Ông Phong khẳng định: “Nông nghiệp tuần hoàn không chỉ là một mô hình sản xuất mới mà là hướng đi tất yếu để Việt Nam vừa phát triển kinh tế nông nghiệp, vừa bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu”.
Công nghệ xanh “mở đường” hội nhập quốc tế
GS.TS Lê Văn Tán, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Công nghệ (Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM) nhấn mạnh, công nghệ xanh và thực phẩm tương lai sẽ là “tấm hộ chiếu” để nông sản Việt Nam hội nhập quốc tế.
Theo ông Tán, người tiêu dùng hiện đại ngày càng quan tâm đến nguồn gốc sản phẩm, quy trình sản xuất và tác động môi trường. Đây chính là động lực khiến nông nghiệp phải chuyển sang các giải pháp xanh, giảm hóa chất, phát triển thực phẩm hữu cơ, thực phẩm chức năng, protein thực vật và sản phẩm từ công nghệ sinh học.
"Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển thực phẩm tương lai. Với sự đa dạng sinh học, chúng ta có thể nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước", GS Tán đánh giá.

Công nghệ xanh góp phần đưa nông sản Việt Nam từng bước nâng cao năng lực sản xuất theo chuẩn mực quốc tế. Ảnh: Minh Hoàng.
Ông Tán đề xuất, Việt Nam cần triển khai giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu tư vào các dự án liên quan đến công nghệ gen và công nghệ sinh học. Những thành tựu từ các lĩnh vực này sẽ giúp tạo ra các giống cây trồng mới có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, cho năng suất cao và giá trị dinh dưỡng vượt trội, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Song song với nghiên cứu, việc xây dựng thương hiệu và nâng cao uy tín sản phẩm cũng là yếu tố then chốt. Theo ông Tán, doanh nghiệp cần áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đồng thời kể được “câu chuyện sản phẩm” một cách minh bạch, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Điều này sẽ tạo dựng lòng tin và khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Để gia tăng sức cạnh tranh, Việt Nam phải chủ động hội nhập quốc tế, không chỉ bằng cách tham gia các hiệp định thương mại và diễn đàn đa phương mà còn thông qua việc học hỏi kinh nghiệm, tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ các quốc gia phát triển. Nhờ đó, nông sản Việt Nam vừa có cơ hội mở rộng thị trường, vừa từng bước nâng cao năng lực sản xuất theo chuẩn mực quốc tế.