Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang lấy ý kiến dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, trong đó có một số quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Về hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khu, cụm công nghiệp, dự thảo Luật mới sẽ sửa đổi điểm a khoản 1 và bổ sung khoản 6a Điều 51; sửa đổi khoản 1, bổ sung điểm a khoản 2, điểm c khoản 3, điểm b khoản 6, bổ sung điểm d khoản 6 Điều 52; sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 111 về hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khu, cụm công nghiệp.
Gỡ vướng về xử lý nước thải tập trung
Về lý do sửa đổi, theo Cục Bảo vệ môi trường, quy định tại khoản 1 Điều 51, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải có hạ tầng bảo vệ môi trường bao gồm hệ thống thu gom, thoát nước mưa; hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung bảo đảm nước thải sau xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Khoản 4 Điều 51 cũng quy định chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung có trách nhiệm thu gom, đấu nối nước thải của các cơ sở trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung vào hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung; yêu cầu cơ sở đang xả nước thải sau xử lý vào hệ thống thu gom, thoát nước mưa phải chấm dứt việc xả nước thải sau xử lý vào hệ thống thu gom, thoát nước mưa trong thời hạn 24 tháng.
  Các khu, cụm công nghiệp phải có khu xử lý nước thải tập trung. Ảnh: Trung Nguyên.
Mặt khác, khoản 1 Điều 52 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định, cụm công nghiệp phải có hạ tầng bảo vệ môi trường theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật này; khoản 2, khoản 3 Điều 52 Luật Bảo vệ môi trường cũng quy định cụm công nghiệp bắt buộc phải xây dựng hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung hoàn thành trong thời hạn 24 tháng; cụm công nghiệp chưa có hệ thống thu gom, xử lý tập trung thì không được tiếp nhận thêm dự án mới.
Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường cho biết: Trong quá trình triển khai Luật, thực tiễn chỉ ra, các quy định nêu trên hiện nay đang gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Dự thảo Luật mới đã nhận diện rõ vướng mắc này và bổ sung các quy định mang tính đặc thù để tháo gỡ. Cụ thể, với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp hình thành và hoạt động trước thời điểm Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực, nhưng vì nhiều nguyên nhân khách quan chưa thể đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, luật sửa đổi sẽ trao quyền cho địa phương quyết định lộ trình đầu tư.
Trong trường hợp không còn quỹ đất để xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, hoặc các doanh nghiệp thứ cấp đã có hệ thống xử lý riêng bảo đảm quy chuẩn, dự thảo luật cho phép miễn trừ nghĩa vụ đầu tư hoặc đấu nối vào hệ thống tập trung. Những doanh nghiệp này vẫn được phép nâng công suất hoạt động nếu bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường. Đây là hướng tháo gỡ quan trọng nhằm xử lý thực tế tồn tại ở nhiều khu công nghiệp cũ, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, tuân thủ quy định môi trường.
Bảo vệ môi trường khi nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
Dự thảo Luật mới đã sửa đổi khoản 1 và khoản 3 Điều 71 về phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo hướng quy định lộ trình tỷ lệ và lộ trình nhập khẩu phế liệu. Điều này nhằm phù hợp, nhất quán với chính sách, quy định của Nhà nước trong phát triển nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn quốc gia và phát triển bền vững.
Lý do vì Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chưa nêu điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết về lộ trình và tỷ lệ phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên, Luật và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (Điều 77 và 78) đã có các quy định bắt buộc phân loại, thu gom, vận chuyển và tái chế chất thải rắn; các giải pháp, quy định để thúc đẩy thu gom, tái chế phế liệu, chất thải phát sinh trong nước; quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế phải thực hiện tái chế theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc.
Quy định tại Điều 71 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 không quy định về lộ trình, tỷ lệ phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất. Nếu không có chính sách quản lý phù hợp thì phế liệu sẽ ồ ạt nhập khẩu về Việt Nam, dẫn tới dư thừa phế liệu trong nước hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường cao.
  Dự thảo Luật mới quy định chặt chẽ hơn về nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Ảnh: Trung Nguyên.
Trong bối cảnh đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn, nhiều doanh nghiệp băn khoăn việc tái sử dụng các nguồn nguyên, vật liệu có phải xin cấp lại giấy phép môi trường. Theo ông Nguyễn Hưng Thịnh, dự thảo Luật quy định linh hoạt hơn. Cụ thể, nếu doanh nghiệp có thay đổi theo hướng tích cực, giảm tác động đến môi trường, thì không bắt buộc phải điều chỉnh lại giấy phép môi trường. Việc điều chỉnh sẽ chỉ thực hiện khi doanh nghiệp có đề nghị. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp mong muốn cơ quan quản lý ghi nhận chính thức các cải thiện trong giấy phép môi trường, như một bằng chứng về trách nhiệm môi trường và điều kiện thuận lợi khi xuất khẩu hàng hóa. Chẳng hạn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất đồ uống thường chủ động đầu tư để tiết kiệm nước sạch và giảm phát thải, nên họ mong được cập nhật thông tin này vào giấy phép để tăng uy tín và đáp ứng yêu cầu quốc tế.
Theo ông Thịnh, những sửa đổi nói trên thể hiện tinh thần đồng hành và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời vẫn bảo đảm nguyên tắc bảo vệ môi trường nghiêm ngặt, hướng tới phát triển bền vững.




























