| Hotline: 0983.970.780

Làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm vú quý hiếm

Thứ Bảy 12/03/2022 , 11:11 (GMT+7)

Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã làm chủ công nghệ sản xuất hải sâm vú và nuôi thương phẩm thành công loài hải sâm quý hiếm này.

Ngày 11/3, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt Viện III) đã tổ chức hội thảo đánh giá kết quả thực hiện đề tài cấp quốc gia “Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen hải sâm vú (Holothuria nobilis Selenka, 1867).”

Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã làm chủ công nghệ sản xuất giống nhân tạo hải sâm vú. Ảnh: KS.

Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã làm chủ công nghệ sản xuất giống nhân tạo hải sâm vú. Ảnh: KS.

Đây là đề tài nhiệm vụ khoa học-công nghệ quỹ gen cấp quốc gia do Bộ Khoa học – Công nghệ giao Viện III thực hiện với mục tiêu bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.

Tại hội thảo, TS Nguyễn Văn Hùng, Viện III, chủ nhiệm đề tài này cho biết, hải sâm vú là loại có giá trị kinh tế cao, giá bán trên thị trường từ 1,8-2 triệu đồng/kg, bởi giàu chất dinh dưỡng (axit amin cao) cũng như được sử dụng làm dược liệu giúp tăng hệ miễn dịch, rất tốt cho sức khỏe cho con người.

Vì vậy, hải sâm vú bị khai thác gần như cạn kiệt trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Từ đó, Liên minh bảo tồn Thiên nhiên nhiên quốc tế (IUCN) xếp vào loài nguy cấp sắp tuyệt chủng. Việt Nam ghi nhận vào sách đỏ và đưa danh mục bảo tồn lưu giữ nguồn gen quí hiếm quốc gia cần bảo tồn.

Hải sâm vú là loại có giá trị kinh tế cao. Ảnh: MH.

Hải sâm vú là loại có giá trị kinh tế cao. Ảnh: MH.

Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng này kể cả trong và ngoài nước. Trước thực trạng đó, lần đầu tiên ở Việt Nam, Bộ KH-CN cấp kinh phí cho Viện III thực hiện nghiên cứu và sinh sản và phát triển nguồn gen hải sâm vú với thời gian thực hiện từ tháng 10/2017 đến tháng 3/2022.

Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xác định được các đặc điểm sinh học sinh sản bao gồm các giai đoạn phát triển tuyến dinh dục con cái và con đực, cũng như xác định con cái thành thục từ tháng 1 đến tháng 4 và mùa sinh sản chính từ tháng 4 đến tháng 9 trong điều kiện vùng biển Nam miền Trung.

Hải sâm vú giống. Ảnh: MH.

Hải sâm vú giống. Ảnh: MH.

Bên cạnh đó đề tài tiến hành các thí nhiệm sinh sản nhân tạo hải sâm vú và xác định phương pháp kích thích sinh sản bằng phương pháp shock nhiệt đối với hải sâm vú thành thục là có hiệu quả cao. Các giai đoạn phát triển phôi, biến thái ấu trùng và đăc tính từng giai đoạn cũng được ghi nhận chi tiết.

“Đề tài xác định mật độ ương 0,6 con/ml cho tỷ lệ sống và tăng trưởng cao ở giai đoạn ương ấu trùng sống nổi và thức ăn sử dụng ở giai đoạn này là các loại tảo tươi có chất lượng.

Còn ở giai đoạn ương ấu trùng sống bám đáy thì mật độ ương thích hợp 1-5 con/cm2 nền đáy; thức ăn sử dụng tảo đáy đơn bào navicular/nitzchia kết hợp spirulina và fripack. Nếu cho ấu trùng giai đoạn này bám ở tôn nhựa sẽ cho tỷ lệ sống rất sao”, TS Nguyễn Văn Hùng chia sẻ và khẳng định nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công giống hải sâm vú nhân tạo rất ổn định, cũng như đã làm chủ công nghệ sản xuất giống.

Hải sâm bố mẹ đang kích thích sinh sản. Ảnh: KS.

Hải sâm bố mẹ đang kích thích sinh sản. Ảnh: KS.

Ngoài ra, đề tài đã triển khai các mô hình nuôi thương phẩm ở nhiều loại mô hình và điều kiện khác nhau nhằm mục tiêu xác định các chỉ tiêu kỹ thuật xây dựng mô hình nuôi thương phẩm phát triển nguồn gen. Mô hình nuôi thương phẩm 2 giai đoạn được đánh giá hiệu quả nhất, nuôi hải sâm trong lồng treo giai đoạn con giống đến 200 g/cá thể và tiếp tục nuôi trong lồng chìm đến kích thước thương phẩm. 

Tại hội thảo, đại biểu đánh giá, đề tài đã đạt được các mục tiêu đề ra tạo được con giống nhân tạo chủ động và phát triển thành đối tượng nuôi biển và tái tạo nguồn lợi quý hiếm. Tuy nhiên các đại biểu cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu nuôi mô hình sinh thái, nuôi xa bờ hải đảo được dự kiến có tính khả thi cao và hiệu quả đối với loài hải sâm vú.

TS Nguyễn Thị Thanh Thùy (Viện III) cho biết, bệnh thường gặp ở hải sâm nuôi thương phẩm như bệnh rong bám, bệnh ngoại ký sinh trùng và bệnh lở loét. Về biện pháp phòng bệnh cho hải sâm chủ yếu thông qua việc vệ sinh lồng nuôi, bể nuôi thường xuyên để loại trừ rong bám và ký sinh trùng. Còn trị bệnh lở loét bằng cách tắm kháng sinh Doxycyline nồng độ 50ppm/3 giờ mỗi ngày, liên tục trong 7 ngày.

Xem thêm
Nuôi thỏ lai, thu lợi nhanh

AN GIANG Nuôi thỏ đang trở thành hướng đi triển vọng cho nông dân ở An Giang, nhờ chi phí thấp, dễ chăm sóc, đầu ra ổn định, đã giúp nhiều hộ tăng thu nhập rõ rệt.

Hơn 2 tấn cá biển chết do virus gây hoại tử thần kinh

QUẢNG NINH Giai đoạn chuyển mùa khiến dịch bệnh trên thủy sản nguy cơ bùng phát mạnh, Quảng Ninh vừa ghi nhận 2,2 tấn cá biển chết do virus gây hoại tử thần kinh.

Nông dân Bắc Trung Bộ sở hữu bộ giống cây trồng chất lượng

Bộ giống chất lượng kết hợp với nền tảng khoa học công nghệ đã tạo nên khác biệt lớn trên những cánh đồng màu mỡ của vùng Bắc Trung Bộ.

Bí thư, chủ tịch xã cũng phải 'quảng cáo, bán hàng'

Để nông sản có chỗ đứng, giám đốc hợp tác xã phải chịu khó tìm kiếm thị trường, thậm chí bí thư, chủ tịch xã cũng phải 'quảng cáo, bán hàng' giúp nông dân.

Ruộng đồng nứt nẻ, nguy cơ hạn hán diện rộng tại Bắc Kạn

Bắc Kạn Nhiều cánh đồng tại tỉnh Bắc Kạn không có nước, mặt đất nứt nẻ, người nông dân không thể trồng cấy, nếu không có mưa sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất.

Lúa khỏe, người khỏe, chi phí giảm nhờ drone

Nông dân ngày nay có thể kiểm soát dịch hại từ xa bằng drone, vừa giảm công lao động, tăng hiệu quả, hạn chế rủi ro về sức khỏe và ô nhiễm môi trường.

Giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ của Bắc Kạn có thể giảm 10 triệu USD

Bắc Kạn Một số đơn hàng của doanh nghiệp chế biến gỗ tại tỉnh Bắc Kạn xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị hủy, tạm dừng, có đơn vị bị hủy tất cả đơn hàng đã ký.