Cảnh báo lũ lớn
Theo dự báo của Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Hà Tĩnh, năm 2024 đã ghi nhận một mùa hè khốc liệt, với lượng mưa từ tháng 4 đến tháng 8 thiếu hụt và phổ biến thấp hơn 10 - 20% so với trung bình nhiều năm cùng kỳ; từ tháng 9 đến tháng 11 sẽ có xu hướng tăng cao hơn so với trung bình nhiều năm từ 10 - 20%.
“Nắng lắm thì mưa nhiều. Do đó, số đợt lũ và đỉnh lũ năm nay dự báo sẽ cao hơn trung bình nhiều năm và cao hơn năm 2022, 2023. Cần đặc biệt đề phòng lũ lớn đột biến gây ngập lụt nghiêm trọng và đỉnh lũ cao lịch sử”, ông Trần Đức Bá, Giám đốc Đài khí tượng thủy văn Hà Tĩnh cảnh báo.

90 năm qua, tuyến đê La Giang đã bảo vệ an toàn cho hơn 300.000 người dân; hơn 48.000ha đất canh tác và cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng của 5 huyện, thị xã. Ảnh: Thanh Nga.
Mưa lũ dự báo cực đoan, có những thời điểm vượt ra ngoài quy luật thông thường sẽ đe dọa các công trình chống lũ trọng yếu như đê La Giang, hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, các hồ chứa vừa và nhỏ xây dựng từ 30 - 40 năm trước, tập trung nhiều ở các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh…
Riêng với đê La Giang, đây là tuyến đê dài nhất ở Hà Tĩnh (19, km), nằm ở bờ hữu sông La, đi qua địa phận huyện Đức Thọ (15,7km) và thị xã Hồng Lĩnh (3,5km). Tuyến đê được xây dựng từ năm 1934, thi công qua nhiều giai đoạn với hình thức đắp tôn cao, áp trúc, mở rộng bằng thủ công và cơ giới.
Công trình được phân cấp quản lý theo địa giới hành chính, trong đó đoạn từ K0 đến K15+600 do UBND huyện Đức Thọ chịu trách nhiệm; đoạn từ K15+600 đến K19+200 do UBND TX Hồng Lĩnh chịu trách nhiệm; Công ty TNHH MTV Thủy lợi Bắc Hà Tĩnh trực tiếp quản lý 7 cống dưới đê.
Theo ông Trần Đức Thịnh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Hà Tĩnh, trong 19,2km chiều dài của đê La Giang có hơn 12km đã được bê tông hóa; còn 5,79km chưa được gia cố. Các tài liệu khảo sát địa chất xác định, trên tuyến đê La Giang có 2 loại nền đê đặc trưng là đoạn đê nền cát có hệ số thấm lớn và đoạn đê có nền đất mềm yếu.
“Quy mô đê La Giang đã được đầu tư nâng cấp lớn hơn nhiều so với trước đây nhưng với tình hình thiên tai, lũ lụt ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường thì công tác hộ đê mùa lũ vẫn luôn là nhiệm vụ cấp bách và được Hà Tĩnh đặt lên hàng đầu”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Cũng theo ông Thịnh, 90 năm qua, tuyến đê này đã bảo vệ an toàn cho hơn 300.000 người dân; hơn 48.000ha đất canh tác và cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng thuộc địa bàn các huyện Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh, huyện Can Lộc, Lộc Hà và một phần phía Bắc huyện Thạch Hà.

Cống dưới đê được giao cho Công ty TNHH MTV Thủy lợi Bắc Hà Tĩnh quản lý, vận hành. Ảnh: Thanh Nga.
Năm 1978 xuất hiện lũ lớn nhất trên sông La kể từ khi hình thành đê La Giang. Mực nước lũ hoàn nguyên ghi nhận tại K2+00 là 8,10m. Tuy nhiên, thời gian lũ rút nhanh, thời tiết không phức tạp nên công tác hộ đê không gặp quá nhiều khó khăn.
Nhiều trọng điểm xung yếu cần bảo vệ
Mặc dù đê La Giang đã được đầu tư nâng cấp lớn hơn nhiều so với trước đây, tuy nhiên mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ của tuyến đê cũng lớn hơn do cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, việc “lên dây cót” hàng năm, đưa ra các tình huống giả định, xây dựng phương án bảo vệ vùng trọng điểm nguy hiểm có thể xảy ra sự cố khi có lũ lớn kèm theo bão, triều cường thời gian mưa lũ kéo dài... là bắt buộc và cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến thôn, xóm.
Trong trường hợp xảy ra lũ lớn vượt tần suất thiết kế, ưu tiên sơ tán người tại bệnh viện, trường học, khu dân cư, cơ sở an ninh/quốc phòng, cơ sở kinh tế,... Xe ô tô cứu hộ ưu tiên các thôn, bản ở gần sông và khu vực có nguy cơ ngập trước. Đặc biệt quan tâm tới người già, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai là những đối tượng dễ chịu tổn thương nhất.
Lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh cho biết, từ cuối tháng 6/2024, tỉnh đã giả định nhiều phương án hộ đê La Giang. Đích thân Chủ tịch UBND tỉnh Võ Trọng Hải là người chỉ huy chung; ông Nguyễn Văn Việt, Giám đốc Sở NN-PTNT, phụ trách công tác phòng chống thiên tai; ông Nguyễn Xuân Thắng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, phụ trách công tác cứu hộ cứu nạn. 12 thành viên còn lại theo phân cấp thực hiện chỉ đạo, chỉ huy xử lý các tình huống theo quy định nhằm bảo vệ an toàn cho công trình, người và tài sản trong suốt mùa mưa lũ.
Các đơn vị, địa phương cũng chuẩn bị vật tư như: đá hộc, đá dăm, cát, bao tải, rọ thép, vải lọc, bạt chắn sóng, phên tre, tre, bao tải... để sẵn sàng ứng phó khi xảy ra sự cố.
Các vùng trọng điểm nguy hiểm trên tuyến đê La Giang sẽ được chú trọng bảo vệ trong mùa lũ năm nay, bao gồm: hệ kè Tùng Ảnh (đoạn K0+600 - K2+100). Đây là đoạn đê chạy ngay sát mép bờ sông La, chiều cao đê lớn và nằm trên vùng cát thô có chiều dày từ 5 - 13m; về mùa khô xuất hiện dòng thấm ngược từ phía đồng ra phía sông gây sập mái đê, cơ đê phía sông và kè bảo vệ chân đê phía sông.

Trước mùa mưa lũ, các vị trí xung yếu có nguy cơ mất an toàn trên tuyến đê được "lên dây cót" bảo vệ nghiêm ngặt. Ảnh: Thanh Nga.
Về mùa lũ, dòng chảy áp sát thân đê gây sập tuyến kè, xói lở mái đê phía sông. Đây là đoạn đê đã từng xảy ra sự cố sạt trượt mái đê phía sông do mưa lũ năm 1996 với chiều dài sạt, trượt gần 100m. Mặc dù nhiều năm qua, được sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, sự hỗ trợ của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai, tỉnh Hà Tĩnh ưu tiên đầu tư, tu bổ, nâng cấp tuyến kè bảo vệ mái đê phía sông, tuy nhiên đây vẫn là một trong những vị trí xung yếu nhất của tuyến đê La Giang cần được bảo vệ.
Tiếp đến là cụm cống Đức Xá (tại K8+00 - K8+165). Cụm cống này hoàn thành, đưa vào sử dụng cuối năm 2017 và chưa qua thử thách, lại được xây dựng qua đoạn đê có nền địa chất mềm yếu.
Vùng trọng điểm thứ 3 là vùng sủi Đức Diên (từ K12+200 - K14+100). Mặc dù trong thời gian qua đã thi công đắp kéo dài tầng phủ phía sông đến cao trình (+3m), rộng 10m; trong phạm vi vùng sủi lớn đã được xây dựng hệ thống 10 giếng giảm áp, hiện nay các giếng giảm áp này đang phát huy tác dụng rất lớn, kèm theo đó là hệ thống kênh tiêu thoát cũng đã được đầu tư xây dựng, đảm bảo tiêu thoát nước khu vực. Tuy nhiên, do nền đê đoạn này là tầng cát thô dày; tầng phủ phía sông và phía đồng mỏng nên khi nước lũ lên trên báo động II xuất hiện các vùng sủi, mạch sủi; đặc biệt là các giếng nước của người dân ven đê vẫn xuất hiện sủi nước tràn qua miệng ống và xung quanh thành giếng, tiềm ẩn nguy hiểm.
Ngoài ra, còn có một số điểm như đoạn ngã sóng (từ K16+213 - K19+080), khi có lũ lớn kết hợp gió bão mạnh hoặc áp thấp nhiệt đới, nguy cơ tràn đê và sạt lở mái đê. Cống trạm bơm Đức Diên (K11+625); cống Quy Vượng (K13+880); cống Lam Hồng (K19+200)…