Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường đồng hành cùng đất nước, Nhà sử học Dương Trung Quốc, nguyên Đại biểu Quốc hội đã có nhiều chia sẻ tâm huyết với Báo Nông nghiệp và Môi trường về hành trình 80 năm của đất nước và vị thế của nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Gốc đất nước từ những ngày đầu độc lập
Nhà sử học Dương Trung Quốc ngẫm ngợi: Lịch sử đã chứng kiến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống ách đô hộ của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai đã diễn ra ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược (năm 1858) và không khi nào ngớt.

Bác Hồ thăm nông dân tỉnh Bắc Kạn (cũ) thu hoạch lúa mùa 1950.
Xuyên suốt quá trình đó, dù dưới ngọn cờ của ai thì người nông dân Việt Nam vẫn luôn là “quân chủ lực”, đóng góp nhiều nhất, chịu đựng nhiều đau khổ và hy sinh nhất.
Những năm đầu thế kỷ XX, các tổ chức chống Pháp đã tiếp cận với phong trào dân chủ và các sĩ phu, các nhà Duy Tân đến các tổ chức chính trị đều coi người nông dân là nguồn lực đông đảo nhưng chưa ai, chưa tổ chức nào có một cương lĩnh sẽ mang lại cho người dân mà đại đa số là nông dân một lợi ích nào cụ thể ngoài một ý niệm về danh dự dân tộc, nền tự chủ quốc gia.
Phải đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) mới xuất hiện một tổ chức chính trị có thể nói là duy nhất, khi vận động cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã đưa ra khẩu hiệu “ruộng đất cho dân cày”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một thời điểm lịch sử diễn ra trên toàn cầu, tạo cơ hội cho nhiều quốc gia có thể tạo dựng nền tự chủ gắn liền với sự kết thúc của đại chiến Thế giới lần thứ II. Ở Việt Nam, duy nhất có Đảng Cộng sản với 15 năm thử lửa, có cả những thất bại đẫm máu (như Xô viết Nghệ Tĩnh, Nam Kỳ khởi nghĩa…) đã có những bước chuyển “thần kỳ” để tạo nên một tình thế cho việc huy động được toàn dân tập hợp quanh Mặt trận Việt Minh, nổi dậy giành quyền độc lập từ trong trong tay phát xít Nhật với vị thế là lực lượng hợp tác với Đồng Minh, phe chiến thắng trong cuộc đại chiến. Tất cả những điều đó là kết quả của sự dẫn dắt tài tình của một nhân vật xuất chúng: Hồ Chí Minh.

"Phát triển bền vững đã ló rạng ngay từ những ngày đầu độc lập, hướng tới mục tiêu mang lại Tự do và Hạnh phúc cho người dân Việt Nam", Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ảnh: Tùng Đinh.
Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nền độc lập dân tộc ấy được được xác lập dựa vào chủ trương quyết liệt “Lấy sức ta tự giải phóng cho ta” với lời Tuyên ngôn “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng nền độc lập mở ra cùng với cuộc Cách mạng Mùa Thu 1945 không chỉ là giành lại nền độc lập sau 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và sự chiếm đóng của phát xít Nhật. Nền độc lập ấy không chỉ như tiền nhân đã giành đoạt lại giang sơn sau những cuộc xâm lăng hay đe dọa xâm lăng của ngoại bang để giữ vững hay dựng lên một triều đại mới tự chủ như các triều đại Lý, Trần, Lê…, mà cuộc tự chủ lần này chấm dứt ngay cả chế độ quân chủ đã từng tồn tại cả ngàn năm để mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới giữa một thế giới đầy biến động.
Nền độc lập ấy đã cho ra đời và gắn liền với thể chế được lựa chọn là “Dân chủ - Cộng hòa”. Đó là quốc danh phù hợp với xu thế của thời đại gắn với nội hàm “một nhà nước của dân, do dân và vì dân” như tư tưởng của Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ), Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đưa ra 3 tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” có xuất xứ từ “Chủ nghĩa Tam Dân” của Tôn Trung Sơn, “quốc phụ” của nền Dân chủ Trung Hoa (Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do và Dân sinh Hạnh phúc).
Nhưng với Hồ Chí Minh, những quốc danh và tiêu ngữ ấy không chỉ là các mỹ từ mà nó phải trở thành động lực làm thay đổi xã hội, thành hiện thực mà nhân dân có thể đong đếm, thụ hưởng.
Vì thế, ngay từ buổi họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/9/1945) cũng như trong các văn kiện sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc đến cái nguyên lý “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Nói cách khác Tự do và Hạnh phúc mới là giá trị thực của Độc lập.
Vì vậy khi nói đến Cách mạng Tháng Tám thì giá trị lớn và dễ thấy nhất là chế độ cũ (phát xít, thực dân và cả chế độ quân chủ) đã bị đánh đổ. Nhưng điều quan trọng hơn như trong lá thư “lấy danh nghĩa là một người đồng chí già mà viết để san sẻ ít nhiều kinh nghiệm” gửi các đồng chí tỉnh nhà Nghệ An vào ngày 17/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chia sẻ: “...Công việc phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công việc dọn dẹp sắp đặt, giữ gìn kiến thiết. À! việc này mới khó chứ! Trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước....”.
Do vậy, đánh giá Cách mạng Tháng Tám 1945 không chỉ là thành tựu vận động nhân dân đánh đổ chế độ cũ mà quan trọng hơn là một chế độ chính trị, một nhà nước mới đã ra đời và báo hiệu một kỷ nguyên mới sẽ như thế nào để có thể biến giá trị tự do và hạnh phúc thành hiện thực.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, chỉ có 15 tháng tính từ ngày Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945) đến ngày 19/12/1946, nhà nước Việt Nam non trẻ đã phải bước vào cuộc Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp trở lại xâm lược với âm mưu tước đoạt nền độc lập và chia cắt khối thống nhất của dân tộc Việt Nam. Nhưng cũng chỉ trong 15 tháng đó cũng đủ tạo ra những tiền đề, nền tảng to lớn cho công cuộc kiến thiết quốc gia sau này. Và có thể nói rằng, ngay từ lúc ấy, những vấn đề cơ bản nhất đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh “thiết kế” cho những định hướng phát triển đất nước lâu dài.

"Nông nghiệp là nền móng đất nước từ những ngày đầu độc lập", Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ảnh: Tùng Đinh.
Điển hình nhất là lĩnh vực nông nghiệp, gắn liền với đời sống người nông dân Việt Nam. Ngay từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào người nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn… Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” (ngày 14/4/1946), một quan điểm rất gần với việc đánh giá đối với “giới Công thương”.
Quan điểm đó được cụ thể ngay trong thành phần Chính phủ Lâm thời đã có Bộ Canh nông được thành lập ngày 14/11/1945 và Bộ trưởng đâu tiên là cựu sinh viên Trường Cao đẳng Canh nông Cù Huy Cận.
Theo Sắc lệnh số 69 ngày 1/12/1945 thì Bộ Canh nông gồm các cơ quan: canh nông, thú y, mục súc, ngư nghiệp, lâm chính và nông nghiệp tín dụng... Một cơ cấu có thể nói là rất hiện đại. Hơn thế, trong bức thư gửi Tổng thống Mỹ vào tháng 11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ sẵn sàng gửi 50 thanh niên Việt Nam ưu tú nhất sang Hòa Kỳ để học hỏi công nghệ, nhất là trong ngành nông nghiệp.
Mặt khác, không phải đến khi giành được chính quyền mà từ rất lâu, khi giảng dạy cho các lớp chiến sĩ cách mạng đầu tiên những kiến thức về sự phát triển của thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới mô hình “Hợp tác xã”. Những ngày độc lập đầu tiên, mặc dù phải ứng phó với trăm công ngàn việc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành sự quan tâm và kêu gọi: “Nông dân muốn thịnh thì phải có hợp tác xã… Hỡi đồng bào, anh em ta ai chẳng mong được đầy đủ, giàu có, ai chẳng mong ước cho nước thịnh dân cường. Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn góp sức, lập nên hợp tác xã nông nghiệp ở khắp nơi, từ làng mạc cho đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có hợp tác xã”, trích Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946.
Cũng vào thời điểm những ngày đầu độc lập, vấn đề ruộng đất được quan tâm thực hiện ngay bằng Thông tư ngày 13/11/1945 nhằm giảm 25% địa tô với tá điền và những người cấy rẽ, cấy thuê.
Khác với trước cách mạng, người nông dân chiếm hơn 90% dân số chỉ có 30% ruộng đất, Thông tư tháng 11/1945 đã bước đầu giảm bớt sự đói nghèo cho những người nông dân không có ruộng. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rằng đó là cách mang lại sự công bình, lợi cho cả điền chủ và nông dân. Đồng thời, bằng nhiều chính sách khích lệ giới điền chủ đóng góp nhiều hơn cho phúc lợi xã hội và giảm nhẹ những đóng góp của người nông dân.

Nhà sử học Dương Trung Quốc trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Tùng Đinh.
Những bài học còn nguyên giá trị
Thời điểm diễn ra Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Bắc Bộ nạn lũ lụt, vỡ đê trở nên trầm trọng, việc củng cố đê điều được coi là cấp bách hàng đầu. Giữa lúc ngân khố quốc gia cạn kiệt, người phụ trách công việc nặng nề này là kỹ sư Nguyễn Xiển, Giám đốc Đài khí tượng Phủ Liễn được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ. Ông đã đưa ra quan điểm đắp đê chống lụt không chỉ là việc của nhà nước mà trước hết của những người có ruộng đất. Do vậy nguồn lực phải do đóng góp của các chủ đất nộp theo giá trị đất đai (diện tích và loại ruộng), người nông dân nghèo không có đất thì đóng góp công sức như truyền thống là nghĩa vụ công ích.
Hơn thế, vị Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ còn cho đấu thầu công trình để giảm nhẹ tài chính và nâng cao chất lượng công trình. Chủ trương này được trình lên Chính phủ và người phụ trách rất lo rằng sáng kiến của mình có thể sẽ bị gạt bỏ vì nó trái với nhiều giáo điều về cách mạng. Nhưng rốt cuộc chủ trương đó lại được Chủ tịch Chính phủ khích lệ rằng, sử dụng “thầu khoán” có yếu tố bóc lột nhưng thầu làm đê điều lại là yêu nước. Và chính nhờ chủ trương ấy, việc đắp đê chống lụt ở Bắc Bộ đã nhanh chóng được khắc phục và tấm giấy khen đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được dành cho thành tựu này.
Trở lại vẫn đề ruộng đất, chính nhờ chính sách phù hợp để giải quyết vấn đề “ruộng đất cho dân cày” bắt đầu từ giảm tô, tức và các loại thuế vô lý đối với người nông dân và khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (tháng 12/1946), Thông tư giảm tô được nâng lên thành Sắc lệnh (ngày 14/7/1949) và từng bước tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân, các chủ đồn điền nước ngoài và Việt gian.
Đầu năm 1950 số ruộng tạm cấp được bổ sung thêm bằng số đất vắng chủ trong vùng tự do. Đến năm 1952, Chính phủ lại ban hành điều lệ tạm thời về việc chia công điền nhằm quan tâm đến những người nông dân nghèo thiếu ruộng. Nhờ vậy mà cho tới năm 1953, trước khi chủ trương Cải cách ruộng đất đã có hơn 300.000 ha đã được tạm cấp cho nông dân, tức là gấp rưỡi số ruộng được chia cho nông dân thời cải cách ruông đất sau này.

Nhiều bài học đến nay còn nguyên giá trị. Ảnh: Tùng Đinh.
Ở Nam Bộ là nơi quyết không thực hiện cải cách ruộng đất còn được bổ sung vào số đất rất lớn do các điền chủ được vận động hiến điền nên số ruộng đã tạm chia cho nông dân lên tới hơn 560.000ha cho ngót 520.000 nông dân trong độ tuổi lao động. Như vậy với phương thức tạm cấp, từng bước tư liệu sản xuất đã đến tay người nông dân mà không phương hại đến khối đoàn kết toàn dân đang hợp sức tiến hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong thực tế vấn đề “cải cách thổ địa” cũng đã có lần được đưa ra bàn trong chính phủ, cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 3/1951) khi bắt đầu tiếp xúc với những quan điểm của “người đồng chí phương Bắc”, nhưng cũng chỉ có thiểu số tán thành vì thế không được thông qua...
Nhưng từ giữa năm 1953, vào thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng: chuyển sang thời kỳ tổng phản công. Phải huy động cao nhất mọi nguồn lực không chỉ ở trong nước với “nông dân là quân chủ lực”, mà còn phải tranh thủ được tối đa sự viện trợ đặc biệt là vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc. Cả hai quốc gia đều đòi hỏi chúng ta phải thực hiện cải cách ruộng đất như một biểu thị cho lập trường giai cấp cần có trong một cuộc cách mạng do tầng lớp vô sản lãnh đạo… Tất cả đã tạo ra một áp lực cho việc Quốc hội Việt Nam giữa lúc đang kháng chiến phải thông qua một bộ luật Cải cách ruộng đất vào tháng 12/1953.
Những gì đã diễn ra sau 5 chiến dịch phát động kéo dài cho đến hơn 2 năm sau ngày kháng chiến toàn thắng (1956) đã trở thành một thời đoạn lịch sử được ghi nhận là một cuộc vận động nông dân “long trời lở đất” như cách ví của bộ máy tuyên truyền đương thời, với nhiều bài học lịch sử đa chiều. Những sai lầm trong tổ chức thực hiện kết hợp với chiều hướng khuynh tả trong chủ truơng “chỉnh đốn tổ chức” đã mang lại một tổn thất to lớn và hằn sâu trong ký ức: Không thể kể hết những cảnh tượng bi thảm…” (Tố Hữu viết trong cuốn Hồi ký Nhớ lại một thời).

Giá trị cốt lõi của phát triển bền vững đã ló rạng ngay trên chặng đầu tiên của nền độc lập dân tộc. Ảnh: Tùng Đinh.
80 năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công và Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập. Những bài học đầu tiên của công cuộc dựng nước trên lĩnh vực nông nghiệp cùng những thay đổi thân phận người nông đã dân để lại những giá trị thể hiện sức sống và sáng tạo của một cuộc cách mạng xã hội to lớn dưới sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt.
Từ những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh cũng như những lựa chọn con đường phát triển dẫn đến những vấp váp ở những giai đoạn sau càng cho thấy những giá trị cốt lõi của phát triển bền vững đã ló rạng ngay trên chặng đầu tiên của nền độc lập dân tộc luôn hướng tới mục tiêu mang lại Tự do và Hạnh phúc cho người dân Việt Nam, trước hết là những người nông dân luôn đứng mũi chịu sào, những người luôn đóng góp và hy sinh nhiều nhất.