Hiện nay, việc bảo vệ nguồn nước ngọt trở thành vấn đề sống còn đối với Đồng bằng sông Cửu Long. Tiến sĩ Văn Hữu Huệ - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long chia sẻ với Báo Nông nghiệp và Môi trường những ý tưởng và định hướng chiến lược để đảm bảo an ninh nguồn nước cho toàn vùng.

Ông Văn Hữu Huệ - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long chia sẻ về diễn biến xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Hồ Thảo.
Theo ông, vì sao việc giữ nước lại mang ý nghĩa chiến lược cho Đồng bằng sông Cửu Long?
Khoảng 4.000 năm trước, ĐBSCL từng bị biển tiến bao phủ, sau đó nước rút dần và phù sa bồi đắp hình thành như ngày nay. Hiện chưa có tài liệu khoa học xác định chính xác khi nào chu kỳ biển tiến tiếp theo xảy ra, nhưng chúng ta phải tính đến khả năng này. Nếu nền đất sụp lún, xói lở, tầng phèn trồi lên, đất không còn trồng trọt được, nguồn nước bị nhiễm phèn và mặn, dân cư sẽ khó sinh sống.
Hiện, bài toán của đồng bằng không phải là thiếu nước, mà là không giữ được nước: mùa mưa nước tràn ra biển, mùa khô thì khan hiếm nghiêm trọng. Do đó xây dựng các hồ chứa nước là cách giữ lấy sự sống cho toàn vùng.
Cụ thể, kế hoạch xây dựng hồ chứa nước ở khu vực nào và được triển khai ra sao, thưa ông?
Chúng tôi đang đề xuất nghiên cứu xây dựng hồ chứa nước trên sông Măng Thít, kết hợp âu thuyền hai đầu để ghe thuyền qua lại. Đề xuất này đã được trình lên Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Long. Khi hội đồng khoa học được thành lập và mời các chuyên gia đánh giá, nếu đề tài được thông qua, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu chi tiết, sau đó chuyển thành dự án để xin vốn từ Trung ương. Đây là công trình quy mô lớn, vốn đầu tư dự kiến rất cao; riêng phần kè hai bên sông có thể lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Vì vậy, nghiên cứu kỹ lưỡng là bước bắt buộc trước khi triển khai thực tế.
So với những công trình trữ nước đã triển khai ở các địa phương khác, quy mô hồ chứa nước trên sông Măng Thít sẽ như thế nào, thưa ông?
Quy mô dự kiến của hồ Măng Thít không hề nhỏ, tương đương với hồ Láng Thé ở Trà Vinh cũ. Công trình đó được triển khai rất bài bản: lấy nước từ kênh, xây kè, làm đường hai bên, đồng thời quy hoạch khu đô thị và du lịch ven hồ. Nếu dự án hồ Măng Thít được thực hiện, đây sẽ là bước ngoặt lớn cho Vĩnh Long, khi vừa cung cấp nước ngọt cho nội tỉnh, vừa phục vụ nhu cầu liên vùng.
Vì sao ông chọn phương án tận dụng lòng sông thay vì đào hồ mới?
Ở đồng bằng, đào hồ là phương án rất khó khả thi. Đất là của dân, giá đền bù cao. Khi đào sâu, tầng phèn bị kéo lên gây ô nhiễm, hư đất. Ngoài ra, khối lượng đào đắp lớn, chi phí khổng lồ. Do đó, tận dụng lòng sông hiện có, ngăn mặn giữ ngọt, chuyển trạng thái dòng chảy là phương án hiệu quả hơn nhiều. Vừa giảm chi phí, vừa hạn chế giải phóng mặt bằng, không ảnh hưởng tầng địa chất.
Một số ý kiến lo ngại công trình ngăn mặn có thể ảnh hưởng đến dòng chảy, gây ô nhiễm. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?
Nếu không có công trình ngăn mặn, sản xuất và sinh hoạt sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế, hệ thống cống âu thuyền khi vận hành hợp lý sẽ không gây tác động xấu: bình thường nước ra vào tự nhiên, chỉ khi mặn xâm nhập mới đóng lại. Việc xây âu thuyền có thể khiến ghe thuyền đi chậm hơn, nhưng đổi lại, chúng ta giữ được nguồn nước ngọt ổn định cho cả vùng. Đây là giải pháp bắt buộc trong bối cảnh hạn mặn ngày càng gay gắt.
Theo ông, nếu đề án được thông qua, đâu là ý nghĩa lớn nhất của công trình này?
Đây sẽ là công trình hồ chứa nước ngọt quy mô lớn nhất nhì của Vĩnh Long, góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Đồng bằng này nếu không giữ nước sẽ không còn tương lai sản xuất. Khi thành công, đây không chỉ là công trình thủy lợi, mà còn là công trình chiến lược cho sự phát triển bền vững của cả vùng.

Nếu dự án thành công, sông Măng Thít sẽ trở thành hồ chứa nước ngọt có quy mô lớn nhất nhì trong khu vực. Ảnh: Hồ Thảo.
Ngoài hồ chứa mặt, ông có đề xuất gì thêm?
Hai năm trước, tôi được mời sang Anh để trình bày ý tưởng xây hồ chứa nước trong lòng đất tại Đồng Tháp Mười, nơi có đến bảy tầng nước ngầm. Trước đây, chúng ta khai thác quá nhiều, khiến đất bị rỗng và dẫn đến sụt lún. Giải pháp là bơm nước ngọt trở lại các tầng ngầm để phục hồi cân bằng thủy lực, kỹ thuật mà nhiều nước tiên tiến đã áp dụng. Nước dưới lòng đất ở đồng bằng là một hệ thống liên thông, không có ranh giới rõ ràng. Việc bơm nước tại một điểm có thể lan ra một diện tích rộng, tạo nên một “hồ ngầm” khổng lồ. Đây là hướng đi dài hạn, đòi hỏi công nghệ khảo sát sâu, siêu âm địa chất và chi phí cao, nhưng mang ý nghĩa chiến lược quan trọng cho các thế hệ sau.