Vận hành ‘lá chắn mềm’ cho Đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang bị biến đổi khi những quy luật thủy văn quen thuộc dần khó đoán định. Trước đây, người dân miền Tây quen nhịp con nước “đến hẹn lại lên”: Mùa nước nổi tràn về mang theo phù sa, rửa phèn. Nước rút mở đồng xuống giống lúa, rau màu. Con nước vì thế vừa là nguồn lực tự nhiên, vừa là chiếc đồng hồ của sinh kế. Lịch sản xuất, xuống giống lúa, rau màu, thói quen sinh hoạt, đi lại… cũng đều gắn với quy luật tự nhiên đều đặn ấy.

Nhưng khoảng hơn chục năm trở lại đây, sự bất định trở thành trạng thái thường trực. Lũ mùa nước nổi không còn lớn như trước, có năm về rất thấp, trong khi mưa lại xuất hiện dồn dập, cường độ mạnh, phân bố không đều theo không gian và thời gian. Triều cường ngày càng cao do biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tạo thêm áp lực lên vùng hạ lưu. Khi mưa lớn gặp triều cao, nước thoát chậm, ngập nội vùng kéo dài, đứt nhịp sản xuất và sinh hoạt. Tại nhiều khu vực, “điểm ngập” không còn là chuyện hiếm của đô thị, mà trở thành mối lo thường xuyên của thị dân, sản xuất nông nghiệp ven đô.

Năm 2025 cho thấy rõ sự khó đoán định ấy. Hiện tượng ENSO duy trì trạng thái trung tính, nhưng lượng mưa trên lưu vực Mekong biến động mạnh so với trung bình nhiều năm.

Từ tháng 8 đến tháng 11, Biển Đông liên tiếp có bão và áp thấp nhiệt đới, gây mưa lớn kéo dài tại Nam Bộ. Lũ thượng nguồn tại Tân Châu, Châu Đốc (tỉnh An Giang) không vượt đỉnh lịch sử, song mưa nội vùng kết hợp triều cường khiến mực nước nhiều nơi hạ lưu duy trì cao trong thời gian dài, rút chậm khiến hệ thống kênh, rạch bị “no nước” nhiều ngày. Nước không ập đến bằng một đỉnh lũ lớn, nhưng lại “neo” dai dẳng, tạo sức ép kéo dài lên bờ bao, đường giao thông nội đồng và sinh hoạt dân cư.

Ở các đô thị ven sông như Cần Thơ, Vĩnh Long cùng những vùng sản xuất trũng thấp thuộc Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau, ngập cục bộ xuất hiện với tần suất dày hơn. Đáng lo ngại là những khu vực trước đây ít chịu ảnh hưởng nay cũng ghi nhận nước dâng bất thường, cho thấy ranh giới rủi ro đang mở rộng. Hệ thống kênh rạch tự nhiên vốn là bộ đệm sinh thái đang suy giảm khả năng tự cân bằng trước các cú sốc khí hậu nối tiếp.

Khi dòng chảy bị “kẹt” trong kênh rạch, chi phí bơm tát tăng lên, nhưng hiệu quả tiêu thoát lại phụ thuộc vào triều và khả năng “mở đường” của các kênh trục.

Áp lực lên bài toán nguồn nước không chỉ đến từ thời tiết. Đô thị hóa, mở rộng giao thông và chuyển đổi sử dụng đất làm thu hẹp không gian trữ nước tự nhiên, nhiều vùng trũng bị san lấp, kênh rạch bị chia cắt, bề mặt bê tông hóa làm dòng chảy mặt tăng.

Cùng lúc, lún sụt đất và hạ thấp lòng dẫn khiến nguy cơ ngập úng mùa mưa, thiếu nước ngọt mùa khô đều tăng. Khi khả năng tự điều hòa suy yếu, mỗi trận mưa lớn dễ trở thành một “bài kiểm tra” đối với hạ tầng và năng lực ứng phó, từ kênh mương nội đồng đến hệ thống thoát nước đô thị.

Với ĐBSCL, nước là nền tảng của an sinh. Một đợt ngập lụt kéo dài có thể làm đổ ngã lúa, phá bờ bao, hư đường nội đồng, phát sinh chi phí bơm tát, cải tạo đất, sửa chữa hạ tầng. Ngược lại, thiếu nước ngọt làm tăng chi phí tưới và làm suy giảm năng suất cây trồng.

Bởi vậy, bài toán nước đã vượt ra khỏi phạm vi kỹ thuật. Nó gắn với quy hoạch sản xuất, bảo vệ hệ sinh thái và cơ chế phối hợp liên tỉnh. Khi “nước lên, nước rút” khó đoán, điều quan trọng là cần có kịch bản, dữ liệu và thông tin đến đúng người, đúng thời điểm để phản ứng nhanh và thích nghi dài hạn.

 

Trong mạng lưới thủy lợi Tây Nam Bộ, cụm công trình cống Cái Lớn - Cái Bé - Xẻo Rô là trục điều tiết chiến lược của vùng hạ lưu sông Cái Lớn, Cái Bé. Ngoài nhiệm vụ kiểm soát mặn - ngọt, hệ thống còn đảm đương tiêu thoát nước khi mưa lớn, triều cường dâng cao, bảo vệ sản xuất và dân cư trên diện rộng, trong mùa mưa lũ biến động.

Nguyên tắc vận hành được xác định rõ: linh hoạt theo diễn biến thời tiết, mực nước thực đo và nhu cầu sản xuất từng tiểu vùng. Khi triều cường dâng, các cửa van đóng theo cấp độ để hạn chế nước dâng tràn vào nội đồng. Khi triều rút, các cửa mở tối đa để tăng tốc tiêu thoát, tạo “khoảng trống thủy lực” cho kênh mương nội đồng.

Sự linh hoạt này đòi hỏi quan trắc liên tục, kỷ luật kỹ thuật nghiêm và phối hợp đồng bộ giữa đơn vị vận hành với chính quyền cơ sở. Mỗi quyết định đóng mở đều phải tính đến diễn biến mưa nội vùng, mức nước trên kênh trục, khả năng tiêu thoát của từng tuyến kênh.

Trong cao điểm mùa mưa lũ năm 2025, cống Cái Lớn có thời điểm đóng đến 9/11 cửa van, cống Cái Bé vận hành đồng bộ 2/2 cửa, cống Xẻo Rô được duy trì mở để tăng khả năng thoát nước ra biển Tây. Nhịp đóng - mở được tính theo giờ triều, kết hợp theo dõi mưa nội vùng và khả năng chịu tải của kênh trục. Mục tiêu là kiểm soát mực nước thượng lưu trong giới hạn an toàn, hạn chế ngập sâu kéo dài và giảm thiệt hại cho vùng lúa, vườn cây, khu dân cư. Khi cần, vận hành còn tính đến việc giữ mực nước ở mức phù hợp để tránh sụt lún bờ kênh và bảo đảm giao thông thủy.

Ông Lê Tự Do, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi Miền Nam cho biết, vận hành công trình thủy lợi tại ĐBSCL trong điều kiện thời tiết cực đoan mang tính quyết định đối với an toàn sản xuất và dân sinh. Ngay từ đầu mùa mưa, đơn vị rà soát công trình, đánh giá hiện trạng kỹ thuật, xây dựng kịch bản vận hành theo từng cấp độ rủi ro và bố trí lực lượng trực 24/24 tại các điểm trọng yếu. Cùng với phương án kỹ thuật, công tác bảo đảm an toàn giao thông thủy, an toàn điện, an toàn thiết bị và an toàn lực lượng tại hiện trường được siết chặt.

“Nguyên tắc xuyên suốt là linh hoạt, kịp thời và đặt an toàn vùng hạ lưu lên hàng đầu. Khi triều cường dâng hoặc mưa lớn kéo dài, cửa cống được đóng mở đúng quy trình để kiểm soát mực nước, giảm áp lực cho hệ thống kênh nội đồng. Khi điều kiện cho phép, công trình mở tối đa để tăng khả năng tiêu thoát, hạn chế ngập úng kéo dài”, ông Lê Tự Do nhấn mạnh.

Theo ông Lê Tự Do, trong điều kiện khí hậu biến đổi, không thể vận hành theo “công thức cố định”, mà phải dựa trên quan trắc, dự báo và kinh nghiệm hiện trường, đồng thời thống nhất cơ chế điều hành để tránh “lệch nhịp” với các địa phương trong vùng.

Mùa mưa lũ 2025 cho thấy thêm một yêu cầu: thông tin vận hành phải chạy nhanh hơn con nước. Mực nước, triều cường và giờ đóng mở được cập nhật, thông báo kịp thời giúp người dân gia cố bờ bao, thu hoạch sớm hoa màu và chủ động tiêu úng, giảm thiểu thiệt hại.

Tháng 11/2025, khi bão Kalmaegi hoạt động mạnh trên Biển Đông, kết hợp gió mùa Tây Nam và kỳ triều cường lớn, mực nước tại cửa sông Cái Lớn được dự báo vượt báo động III. Kịch bản vận hành được kích hoạt, cụm cống đóng mở theo giờ triều, lực lượng kỹ thuật túc trực 24/24 tại hiện trường. Giao thông thủy qua khu vực công trình được hạn chế để bảo đảm an toàn.

Chính quyền địa phương hướng dẫn người dân đóng các cửa mương, gia cố bờ bao, chủ động thu hoạch diện tích lúa đã chín và chuẩn bị phương án tiêu úng khi mưa lớn. Trong thế “một vùng hưởng lợi, nhiều đầu mối tác động”, sự phối hợp giữa đơn vị vận hành, chính quyền và người dân tạo nên hàng rào an toàn nhiều lớp, giúp giảm thiểu rủi ro trong điều kiện bất lợi.

Sau cao điểm mưa lũ, ĐBSCL bước vào tháng 12, thời điểm bản lề chuẩn bị xuống giống vụ lúa đông xuân 2025 - 2026. Nếu mùa mưa đòi hỏi tiêu thoát nhanh lượng nước dư thừa, thì giai đoạn này lại cần giữ mực nước nội đồng hợp lý, ngăn mặn xâm nhập sớm và bảo đảm lịch thời vụ.

Hệ thống thủy lợi phải chuyển trạng thái từ “chống ngập” sang “điều tiết phục vụ sản xuất”, từ ưu tiên thoát nước sang ưu tiên giữ ngọt và phân phối nước theo nhu cầu.

Tại cống Ninh Quới (tỉnh Cà Mau), việc đóng cống ngắn ngày được tính toán kỹ để tăng khả năng cấp nước ngọt cho vùng lúa phía Nam kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp. Ở cống Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long), yêu cầu vừa ngăn mặn, giữ ngọt, vừa bảo đảm giao thông thủy và phục vụ nông nghiệp khiến vận hành phải “cân não” theo từng đợt triều.

Nhờ nguồn nước được kiểm soát ổn định, nhiều địa phương hoàn tất thu hoạch vụ hè thu, thu đông và khẩn trương làm đất, tạo tâm thế vững vàng cho vụ mới. Khi mực nước kênh trục ổn định, việc bơm tưới, rửa đồng, xử lý phèn mặn và chuẩn bị nền đất trở nên chủ động hơn.

Điểm thay đổi căn bản trong tư duy thủy lợi ở ĐBSCL là chuyển từ ngăn chặn cứng nhắc sang điều tiết thông minh, thuận thiên. Các hệ thống thủy lợi như Cái Lớn - Cái Bé không chỉ “chống” mặn hay “đẩy” lũ, mà điều tiết nước theo mùa, theo không gian sản xuất, phục vụ đa mục tiêu.

Trong mùa mưa, công trình giúp tiêu thoát nhanh lượng nước dư thừa, sang mùa khô, hệ thống lại giữ vai trò “giữ ngọt - đẩy mặn”, gạn triều, tạo điều kiện cho lúa, thủy sản và mô hình sinh kế đa dạng như lúa - tôm, nuôi thủy sản nước lợ, cây ăn trái và rau màu thích ứng. Khi vận hành “đúng nhịp”, nước trở thành yếu tố nâng đỡ sản xuất, thay vì là mối rủi ro đe dọa.

Nhìn từ mùa mưa lũ 2025, vai trò chiến lược của công trình thủy lợi hiện đại thể hiện rõ khi được vận hành đồng bộ, linh hoạt. Mỗi cánh cửa van mở ra là thêm một khoảng trống cho nước thoát đi, mỗi lần đóng lại là thêm một lớp bảo vệ cho ruộng đồng, làng xóm và hạ tầng. “Lá chắn mềm” không đối đầu với tự nhiên, mà điều hòa để con người sống cùng con nước, đồng thời giảm thiểu xung đột giữa các tiểu vùng sử dụng nước khác nhau.

Ở nhiều tiểu vùng, đê bao khép kín giúp nông dân chủ động sản xuất 2, 3 vụ lúa mỗi năm, nhưng cũng làm suy giảm không gian trữ lũ tự nhiên. Lũ về ít lại bị chia cắt, không còn đủ thời gian và diện tích để bồi đắp phù sa, rửa phèn, bổ sung nước ngầm. Thực tế này đặt ra yêu cầu chuyển từ “ngăn lũ” sang “sống chung và điều tiết lũ linh hoạt”: đón lũ có kiểm soát, mở đóng cống theo mùa vụ, từng bước khôi phục vai trò trữ nước, giữ phù sa và cân bằng sinh thái.

Khi lũ ngày càng “nghèo”, giá trị của lũ không còn ở độ cao, mà ở cách ta tổ chức không gian và vận hành công trình để phần “ít ỏi” ấy vẫn kịp đi vào đồng ruộng, kịp mang theo phù sa, kịp rửa phèn, đẩy mặn và kịp tạo độ ẩm nền cho mùa vụ tiếp theo.

Sau sáp nhập, An Giang trở thành địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất ĐBSCL, khoảng 9.888 km², trải dài từ Tứ giác Long Xuyên đến ven biển Tây. Ông Nguyễn Huỳnh Trung, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang cho biết tỉnh quản lý hệ thống quy mô lớn với 4.035 cống, hơn 18.343 km kênh, 33 hồ chứa, 2.802 trạm bơm, khoảng 8.810 km bờ bao, đê bao và 234 công trình kè dài gần 88 km.

Theo ông Trung, hệ thống thủy lợi giữ vai trò xương sống trong điều tiết nước cho trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt và ứng phó thiên tai. Bốn nhóm yếu tố tự nhiên tác động mạnh đến an toàn hệ thống gồm: Biến động dòng chảy thượng nguồn Mekong. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Sụt lún đất và hạ thấp lòng dẫn. Sạt lở bờ sông, bờ biển.

Năm 2025, dù lũ đầu nguồn chỉ xấp xỉ báo động II, nhưng đỉnh lũ kéo dài kết hợp mưa nội đồng và triều cường đã gây áp lực lớn lên đê bao, bờ bao, nhất là tại các đoạn xung yếu, nơi dòng chảy kênh rạch chịu tác động của giao thông thủy dày đặc.

Một điểm nhấn trong quản lý là phân vùng thủy lợi phục vụ sản xuất. Từ điều kiện tự nhiên và nhu cầu sử dụng nước, An Giang chia hệ thống thành 10 vùng. Việc phân vùng giúp tổ chức vận hành hệ thống thủy lợi linh hoạt theo sinh thái ngọt, ngọt - lợ, mặn - lợ, vừa phục vụ sản xuất vừa thích ứng khí hậu, đồng thời tạo “bản đồ” điều hành rõ ràng để phối hợp giữa địa phương, đơn vị vận hành và người dân.

Chi cục Thủy lợi An Giang vận hành linh hoạt hệ thống cống do Chi cục quản lý, phối hợp với đơn vị vận hành cụm cống lớn như Cái Lớn - Cái Bé, Xẻo Rô và phối hợp vận hành trạm bơm, hồ chứa, nhằm kiểm soát mặn, giữ ngọt, gạn triều, tiêu úng, điều tiết nước hợp lý theo thời điểm sản xuất. Đồng thời, tăng cường quan trắc, cảnh báo sớm xâm nhập mặn và chất lượng nguồn nước, kịp thời thông tin đến địa phương để bố trí lịch thời vụ, giảm rủi ro. Cùng với đó là tuyên truyền, hướng dẫn người dân tích trữ nước, sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả, nhất là giai đoạn giao mùa khi mặn có thể vào sớm hoặc thiếu nước có thể đến bất ngờ.

Đặc biệt, trước thềm mùa khô 2025 - 2026, Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Phương án về phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Về lâu dài, Chi cục Thủy lợi đang xây dựng Kế hoạch ứng phó hạn mặn giai đoạn 2026 - 2030, sẽ sớm trình cấp có thẩm quyền ban hành trong đầu năm 2026.

Các văn bản này không chỉ là “khung điều hành”, mà còn là cơ sở để địa phương chủ động bố trí lịch thời vụ, lựa chọn giống, điều chỉnh cơ cấu mùa vụ và chuẩn bị vật tư, nhân lực, phương tiện bơm tát, nạo vét, gia cố bờ bao theo từng cấp độ rủi ro.

An Giang triển khai kết hợp cả giải pháp công trình và phi công trình, từ nâng cấp đê, kè, công trình cảnh báo đến truyền thông cộng đồng, diễn tập phòng chống thiên tai. Riêng sạt lở, tỉnh thực hiện Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030. Từ năm 2019 đến nay, tỉnh An Giang đã hoàn thành 12 công trình kè biển với dài hơn 69km, kinh phí khoảng 1.500 tỷ đồng, cùng nhiều tuyến kè sông, kênh rạch khác.

Bên cạnh đầu tư, địa phương tăng cường kiểm tra hiện trường, cắm biển cảnh báo, di dời khẩn cấp tại các điểm có nguy cơ cao và rà soát lại hành lang bảo vệ kênh rạch để hạn chế phát sinh “điểm sạt lở mới” do tác động của dòng chảy và hoạt động giao thông thủy.

Trong giai đoạn tới, ngành thủy lợi An Giang ưu tiên nâng cấp công trình kiểm soát mặn, kiểm soát lũ, phát triển thủy lợi nội đồng gắn với tưới tiết kiệm, nhất là vùng triển khai Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gằn với tăng truổng xanh vùng ĐBSCL.

Bên cạnh đó, là hiện đại hóa quản lý, vận hành công trình, từng bước ứng dụng tự động hóa, hệ thống giám sát điều khiển, nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo sớm, gắn với đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu. Khi vận hành dựa nhiều hơn vào dữ liệu và quy trình, công trình thủy lợi sẽ trở thành công cụ điều tiết đa mục tiêu: phục vụ sản xuất, dân sinh, môi trường và an toàn hạ tầng.

Khi những ngày cuối năm khép lại, ĐBSCL bước vào vụ đông xuân mới với tâm thế chủ động hơn. “Lá chắn mềm” của đồng bằng không nằm ở việc đối đầu với nước, mà ở năng lực điều hòa, phối hợp và thích ứng. Để mỗi lần mở van là thêm một khoảng trống cho nước đi và mỗi lần đóng van là thêm một lớp bình yên cho ruộng đồng.

Trong một đồng bằng đang đổi thay bởi khí hậu và phát triển, vận hành linh hoạt hệ thống thủy lợi chính là cách giữ nhịp sản xuất, giữ nhịp đời sống và giữ một tương lai bền vững.

Đào Chánh - Ngọc Thắng
Trọng Toàn
Đào Chánh - Ngọc Thắng
Đào Chánh - Ngọc Thắng
Xem thêm