Kỷ niệm 80 ngành Nông nghiệp và Môi trường đồng hành cùng đất nước, Báo Nông nghiệp và Môi trường trò chuyện với TS Đặng Kim Sơn, chuyên gia chính sách Viện Nghiên cứu thị trường và thể chế nông nghiệp.
Câu chuyện được mở đầu về vai trò, vị thế của nông nghiệp và môi trường trong kỷ nguyên mới, nhất là khi Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân mới ra đời, được kỳ vọng sẽ mang lại những hiệu quả tương tự "Nghị quyết Khoán 10" trong nông nghiệp ngày trước.

TS Đặng Kim Sơn - chuyên gia chính sách Viện Nghiên cứu thị trường và thể chế nông nghiệp.. Ảnh: Tùng Đinh.
Bất cứ kỷ nguyên nào, nông nghiệp cũng là sức mạnh Việt Nam
TS Đặng Kim Sơn chia sẻ, nhìn lại 80 năm kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn vô cùng gian khó, ở thời kỳ nào nông nghiệp cũng giữ vai trò trụ đỡ và tiên phong, giúp đất nước vượt qua mọi thử thách.
Năm 1945, điểm khởi đầu của thời đại Hồ Chí Minh, chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đã phải đối mặt với áp lực khủng khiếp. Nạn đói lịch sử đã cướp đi hàng triệu sinh mạng người Việt, thiên tai địch họa bao vây cả bên trong lẫn bên ngoài, ngân khố trống rỗng… Tình thế không ai dám nghĩ một năm sau đó Việt Nam đã giải quyết được nạn đói, tổng tuyển cử xây dựng chính quyền và kháng chiến chống giặc ngoại xâm…
Sau 30 năm kháng chiến thống nhất non sông, đất nước Việt Nam bước vào giai đoạn kiến thiết, xây dựng và phát triển trong bối cảnh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh ác liệt;
Kinh tế Việt Nam nằm giữa gọng kìm của bao vây cấm vận bên ngoài và bên trong là cơ chế kế hoạch trì trệ, thị trường ngăn sông cấm chợ, giai đoạn đặc biệt khó khăn của “đêm trước Đổi mới”.
Bước đột phá quan trọng nhất trong giai đoạn này là Chỉ thị 100-CT/TW năm 1981 và Nghị quyết 10-NQ/TW năm 1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã tạo đà cho phát triển, làm nên những thành tựu an ninh lương thực và chuyển từ đất nước hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ bên ngoài trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản.
Đến giai đoạn mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, mặc dù so với các nước chúng ta đi sau nhưng đã vượt lên rất nhanh. Việt Nam trở thành đất nước xuất khẩu đứng thứ hai Đông Nam Á, đứng thứ 15 trên thế giới. Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nông nghiệp được xác định là lợi thế của quốc gia.
Chính vì vậy, có thể khẳng định xuyên suốt 80 năm qua, nông nghiệp luôn luôn là lực lượng đi tiên phong, giúp đất nước ổn định kinh tế, nâng cao đời sống người dân và khẳng định vị thế của dân tộc.
Thưa ông, bước vào kỷ nguyên mới cùng dân tộc, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ngành Tài nguyên và Môi trường hợp nhất thành Nông nghiệp và Môi trường. Gần như cùng thời điểm, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân ra đời, nhiều người kỳ vọng Nghị quyết 68 sẽ khởi đầu cuộc cách mạng mới như Nghị quyết 10 về nông nghiệp trong thời kỳ Đổi mới, ông nghĩ sao?
Từ trước đến nay, chúng ta thường nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp phi nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI hay các tập đoàn lớn mà quên mất một điều, nền móng của nền kinh tế, điểm xuất phát của mọi thành phần kinh tế chính là kinh tế hộ, lực lượng kinh tế to lớn nhất đang mang lại sức mạnh nền tảng cho kinh tế Việt Nam.
Với hơn 5 triệu hộ kinh doanh, thành phần kinh tế này đã làm ra của cải để đóng góp hơn 40% GDP, tạo ra gần 50% việc làm toàn xã hội, đóng góp về của cải vật chất, an sinh xã hội của lực lượng “kín tiếng” này còn nhiều hơn khối doanh nghiệp FDI, nhiều hơn doanh nghiệp nhà nước, nhiều hơn cả doanh nghiệp tư nhân. Cùng với đó, thành tựu to lớn của lĩnh vực nông nghiệp về an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, ổn định chính trị xã hội,… cũng dựa chủ yếu trên sự đóng góp của hơn 8,6 triệu hộ nông dân đang cày cuốc trong các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp.
Vì thế, tôi muốn chúng ta làm rõ vai trò cũng như quá trình “lột xác” của kinh tế hộ. Nếu thành công sẽ là một cuộc cách mạng mới, mang tính nền tảng của kỷ nguyên hùng cường và thịnh vượng, còn ngược lại, đây sẽ là vấn đề rất lớn của chúng ta trong chặng đường phía trước.
Bởi vì bước vào kỷ nguyên mới, cụ thể là giai đoạn 2025-2030 sẽ bùng nổ phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Gần 10 triệu hộ nông dân Việt Nam sẽ nhanh chóng “tiêu biến”, hoặc trở thành các hộ kinh doanh hoặc trở thành lao động trong các khu công nghiệp. Và đến năm 2045, phần lớn nông dân sẽ chuyển thành thị dân, trí thức, nhà kinh doanh, cán bộ hay những lao động tay nghề cao...
Đó là một quá trình “lột xác” rất lớn của nông nghiệp, nông dân, nông thôn và với cá nhân tôi nó sẽ quyết định trực tiếp đến mục tiêu hùng cường, thịnh vượng của đất nước. Đặc biệt khi Nghị quyết 68 ra đời, vị thế của nông nghiệp sẽ càng được củng cố, đóng vai trò thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ để trở thành lợi thế và sức mạnh của quốc gia.

"Ở bất kỳ kỷ nguyên nào, nông nghiệp cũng là lợi thế, sức mạnh Việt Nam", TS Đặng Kim Sơn. Ảnh: Tùng Đinh.
Kinh tế nhân dân, sắp xếp đội hình và mở đường
Trong quá trình “lột xác đó”, kinh tế tư nhân trên mặt trận Nông nghiệp và Môi trường sẽ như thế nào, thưa ông?
Cá nhân tôi cho rằng, dù là kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân hay kinh tế tập thể cũng căn bản là kinh tế nhân dân. Cả đất nước và toàn thể nhân dân là một nền kinh tế lớn, là một sự nối tiếp phát triển và tiến hóa liên tục, là cái gốc của nền kinh tế, tùy vào từng bối cảnh mà sắp xếp “đội hình” các thành phần kinh tế cho phù hợp.
Ví dụ, thời kỳ đầu của Đổi mới, kinh tế hộ là quan trọng nhất. Bởi vì bối cảnh đất nước lúc đó nếu không có hơn 10 triệu hộ nông dân, đất nước chúng ta sẽ không có đột phá về an ninh lương thực. Nếu không có hộ nông dân, chủ thể của Khoán 10 và Chỉ thị 100, chắc chắn đất nước sẽ lâm vào khủng hoảng, không thể nào ổn định và phát triển được.
Tiếp đó, bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập thì vai trò chủ đạo phải là kinh tế nhà nước. Chỗ nào thị trường mới, ngành nghề mới, chỗ nào rủi ro cao lợi nhuận thấp thì doanh nghiệp nhà nước phải xông lên, mở đường cho các thành phần kinh tế khác theo vào. Khi doanh nghiệp nhà nước đã thành công rồi sẽ cổ phần hóa, liên doanh liên kết và bàn giao lại “trận địa” cho thành phần kinh tế khác và tiếp tục tiến vào những trận địa mới.
Ở thời kỳ hội nhập quốc tế, có những quốc gia, lĩnh vực mà kinh tế nhà nước khó tạo được sự đột phá lại phải dựa vào FDI. Nghĩa là tùy vào thời kỳ, giai đoạn mà lựa chọn thành phần kinh tế chủ đạo.
Bước vào kỷ nguyên mới, tôi muốn sắp xếp đội hình xoay quanh kinh tế hộ. Bởi đây chính là lực lượng nòng cốt sẽ lớn lên thành doanh nghiệp, ít nhất là đóng góp lớn vào mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030. Nói cách khác, quá trình “lột xác” từ kinh tế hộ thành doanh nghiệp tư nhân sẽ là cốt lõi của kinh tế nhân dân trong kỷ nguyên mới.
Những rào cản đối với quá trình “lột xác” đó là gì, và giải pháp tháo gỡ thưa ông?
Rào cản, trở ngại lớn nhất từ bên trong. Cái “chết” nhất là nền tảng của kinh tế hộ, thậm chí của hầu hết doanh nghiệp của chúng ta hiện nay là sản xuất nhỏ, manh mún, không có vốn tích lũy, không có kiến thức để phát triển và không có tài nguyên. 10 triệu hộ nông dân, 5 triệu hộ kinh doanh, gần 1 triệu doanh nghiệp của chúng ta đang hoạt động đều gặp phải những rào cản đó. Nguồn lực nhỏ lẻ, phân tán, cạnh tranh nhau theo kiểu “vô hình, ẩn tiếng” và hoàn toàn không minh bạch.
Lực lượng “vô hình, ẩn tiếng” đó không thể phát triển, nhất là khi “đội hình” này bị kẹp giữa hai thế lực khủng khiếp, những rào cản bên ngoài. Một là doanh nghiệp nhà nước, lực lượng đã chốt vào những vị trí then chốt nhất gồm: giao thông, tài chính, công nghiệp nặng và nhiều lĩnh vực mũi nhọn khác. Chốt vào và mãi không chịu rời ra.
Thế lực thứ hai là doanh nghiệp FDI, sầm sập tiến vào và tiếp tục chặn ở những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao nhất, chiếm lĩnh nguyên liệu quan trọng và công nghệ quan trọng nhất. Từ hệ thống đầu ra, bán buôn cho đến bán lẻ, nhãn mác thương hiệu… Một ông “chốt” không rời ra, một ông tiến “chặn” khiến đội hình “vô hình, ẩn tiếng” của chúng ta bị chia cắt và kẹp giữa hai bên, mãi không phát triển được.
Muốn phá thế trận này, nhất quyết nông nghiệp chúng ta phải sắp xếp lại. Đầu tiên doanh nghiệp nhà nước phải chấp nhận tiến vào những chỗ khó khăn nhất để mở đường, xong sứ mệnh phải trả lại trận địa để lực lượng khác tiến vào, nhất là kinh tế tư nhân có cơ hội vươn lên.
Thứ hai, doanh nghiệp nước ngoài muốn vào đầu tư ở Việt Nam chắc chắn phải trải qua quá trình lựa chọn. Đó phải là những doanh nghiệp công nghiệp, công nghệ mũi nhọn, có trách nhiệm bảo vệ môi trường, chấp nhận liên kết với doanh nghiệp trong nước, phục vụ lợi thế cạnh tranh tốt nhất của Việt Nam.
Thứ ba, từ bên trong, kinh tế hộ, kinh tế tư nhân phải tự lớn lên, phá vỡ vỏ bọc để thành hình hài mới. Cách lớn tốt nhất, nhanh nhất và duy nhất là liên kết lại với nhau, để biến thành kinh tế tập thể có sức mạnh lớn.
Thứ tư, nhà nước phải tiếp sức trong quá trình kinh tế nhân dân xây dựng lực lượng. Thứ nhất là mở đường tạo ra cơ hội phát triển bình đẳng. Thứ hai là sắp xếp lại đội hình và nâng cao năng lực, quyền lực của kinh tế nhân dân. Thứ ba là hỗ trợ kinh tế nhân dân tiếp cận và hấp thụ được tài nguyên đất đai, vốn, khoa học công nghệ…
Nếu giải quyết được những vấn đề này, kinh tế nhân dân sẽ phát triển, nội lực đất nước sẽ trở thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

TS Đặng Kim Sơn cho rằng, cần nghiên cứu mô hình tăng trưởng mới. Ảnh: Tùng Đinh.
Mô hình tăng trưởng mới
Liệu rằng với nền tảng thể chế của chúng ta hiện nay đã đáp ứng được quá trình lột xác đó hay chưa, thưa ông?
Vừa đủ vừa chưa đủ. Có hai câu nói mà tôi mong chờ mấy chục năm nay bây giờ đã được khẳng định. Một là “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế” và hai là “xây dựng nhà nước kiến tạo”.
Tất cả những gì tôi phân tích ở trên, nếu chỉ nhà nước quản lý, không kiến tạo sẽ không bao giờ thực hiện được. Cũng như khi có nhà nước kiến tạo nhưng không có tư duy coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất cũng không thể nào hình thành được.
Nghĩa là đã có tư duy và quyết tâm chính trị. Cái chưa có, cho đến giờ chúng ta chưa thấy một mô hình tăng trưởng được vạch ra hẳn hoi. Chúng ta nói nhiều về giải pháp, nhiều cuộc cách mạng về số hóa, cải cách hành chính, đột phá hạ tầng…, tuy nhiên đó vẫn chưa phải là mô hình tăng trưởng mới.
Đã đến lúc chúng ta phải sắp xếp lại đội hình của nền kinh tế như là một hệ sinh thái thống nhất. Đầu tiên chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc quan trọng nhất của cơ chế thị trường là lợi thế. Ở đó không thể có chuyện các địa phương cạnh tranh ngang với nhau theo kiểu Hà Nội sản xuất nông nghiệp như các tỉnh khác trong khu vực Đồng bằng sông Hồng; thành phố Hồ Chí Minh phát triển công nghiệp như các tỉnh khác vùng Đông Nam Bộ.
Mô hình tăng trưởng mới đòi hỏi về mặt không gian các vùng sinh thái chính trên cả nước phải phát triển bằng lợi thế của mình. Ví dụ, Đồng bằng sông Cửu long tập trung vào nông nghiệp, nhất là lúa gạo, thủy sản, trái cây; Đông Nam Bộ làm công nghiệp; thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tập trung làm dịch vụ cao cấp; Tây Nguyên phát triển rừng, cây công nghiệp; Duyên hải Trung bộ phát triển năng lượng và nhất là kinh tế biển, từ du lịch, giao thông biển, nuôi trồng thủy sản; Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ làm dịch vụ, bởi những nơi đó có sức mạnh vô tận về mặt con người; Trung du miền núi phía Bắc làm công nghiệp điện tử, làm dịch vụ môi trường…
Nói cách khác, kinh tế đất nước xưa nay giống như đoàn tàu mà Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đầu kéo và đầu đẩy, thì nay phải là đoàn ô tô, có xe lớn, xe nhỏ, thậm chí là xe bò kéo nhưng tất cả đều phải chủ động đi lên, tất cả đều phải mang động lực phát triển.
Thứ hai, về mặt ngành nghề, nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ phải gắn chặt với từng vùng kinh tế và phục vụ cho lợi thế cạnh tranh. Thứ ba là tổ chức sắp xếp lại đội hình kinh tế thành sức mạnh tổng hợp, phục vụ lợi thế quốc gia là nông nghiệp, tôi cho rằng Việt Nam chắc chắn sẽ đột phá mục tiêu tăng trưởng 2 con số sẽ ngày một gần hơn.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện.