Trong nhiệm kỳ 2021-2025, khi Chính phủ xác định môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững, lĩnh vực tài nguyên và môi trường (TN-MT) đã trở thành lực lượng nòng cốt, đảm trách những lĩnh vực “gốc rễ” của mọi hoạt động phát triển: từ đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, biển đảo, khí tượng thủy văn đến bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, lĩnh vực TN-MT đã không chỉ hoàn thành nhiều mục tiêu lớn, mà còn tạo ra những chuyển biến rõ rệt, mang tính nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

Lĩnh vực tài nguyên và môi trường đóng vai trò nòng cốt trong phát triển bền vững, từ hoàn thiện thể chế, quản lý tài nguyên đến bảo vệ môi trường và ứng phó khí hậu. Ảnh minh hoạ.
Hoàn thiện thể chế mở đường cho phát triển
Một trong những dấu ấn nổi bật nhất của lĩnh vực TN-MT trong nhiệm kỳ qua là công tác hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật. Hàng loạt đạo luật quan trọng được ban hành hoặc sửa đổi toàn diện, tạo hành lang pháp lý hiện đại, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển.
Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 được Quốc hội thông qua với 16 chương và 260 điều, là kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Đây được xem là “cuộc cải cách thể chế lần thứ hai” trong quản lý đất đai, với mục tiêu xuyên suốt là phát huy nguồn lực đất đai cho phát triển, đảm bảo công bằng, minh bạch và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng đất.
Cùng với đó, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) năm 2023, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đi vào thực thi hiệu quả, cùng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho quản lý tổng hợp tài nguyên, hướng tới kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Trong nhiệm kỳ 2021-2025, ngành đã xây dựng và trình Chính phủ rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có nhiều chính sách được đánh giá là mang tính đột phá, như: định giá tài nguyên nước, lồng ghép kinh tế tuần hoàn vào quy hoạch môi trường, hay chính sách chi trả dịch vụ hệ sinh thái.
Quản lý tài nguyên để khơi thông nguồn lực cho tăng trưởng
Tài nguyên thiên nhiên là “vốn liếng tự nhiên” của đất nước, quản lý tốt tài nguyên nghĩa là tạo ra nội lực phát triển mạnh mẽ, giảm phụ thuộc vào khai thác thô và hướng tới giá trị gia tăng cao hơn.
Với lĩnh vực đất đai, ngành đã hoàn thành việc đo đạc bản đồ địa chính cho hơn 90% diện tích tự nhiên cả nước, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia phủ kín 34 tỉnh, thành phố. Đây là bước tiến lớn trong chuyển đổi số của ngành, giúp minh bạch hóa thông tin, giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp sổ đỏ cho người dân và doanh nghiệp.

Lĩnh vực đất đai đã hoàn thành việc đo đạc bản đồ địa chính cho hơn 90% diện tích tự nhiên cả nước, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia phủ kín 34 tỉnh, thành phố. Ảnh: Khương Trung.
Trong lĩnh vực khoáng sản, Bộ TN-MT đã triển khai đấu giá quyền khai thác mỏ công khai, minh bạch, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ, chỉ riêng năm 2024, nguồn thu từ đấu giá và cấp quyền khai thác khoáng sản đạt trên 5.000 tỷ đồng, góp phần tăng thu ngân sách và quản lý hiệu quả tài nguyên không tái tạo.
Với đường bờ biển dài hơn 3.260 km, Việt Nam xác định biển là không gian phát triển chiến lược. Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, chú trọng quản lý tổng hợp tài nguyên biển và bảo vệ hệ sinh thái ven bờ. Đến nay, đã có 28 khu bảo tồn biển được thành lập, trong đó hơn 20 khu hoạt động hiệu quả với tổng diện tích trên 170.000 ha; 100% tỉnh, thành ven biển đã lập và phê duyệt quy hoạch không gian biển.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, hướng tới quản lý tổng hợp, sử dụng tiết kiệm, bền vững và bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, yếu tố then chốt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khan hiếm nguồn nước gia tăng.
Bảo vệ môi trường là trung tâm của phát triển bền vững
Chuyển từ "đi sau" giải quyết ô nhiễm sang quản lý môi trường chủ động và kinh tế tuần hoàn là định hướng lớn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong giai đoạn này. Nhờ triển khai Luật Bảo vệ môi trường 2020, Việt Nam đã thiết lập cơ chế phân loại rác thải tại nguồn, áp dụng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), mô hình tiên tiến đang được nhiều quốc gia phát triển áp dụng.

Một trong những ngày bầu trời Hà Nội trong xanh. Ảnh: Khương Trung.
Theo số liệu thống kê, năm 2024, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 94% ở đô thị và trên 75% ở nông thôn, tăng đáng kể so với giai đoạn 2016–2020. Cả nước đã có 256 khu xử lý chất thải rắn quy mô lớn; nhiều dự án xử lý rác bằng công nghệ đốt phát điện, tái chế chất thải đã đi vào hoạt động. Đặc biệt, ngành đã chủ động kiểm soát các nguồn phát thải lớn, hoàn thành hệ thống kiểm kê khí nhà kính quốc gia, phục vụ lộ trình cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050 mà Thủ tướng Chính phủ đã tuyên bố tại COP26.
Biến đổi khí hậu được xem là thách thức toàn cầu, và Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất đã có những bước đi mạnh mẽ để thích ứng và giảm thiểu rủi ro. Trong giai đoạn 2021–2025, ngành đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2021–2050, cùng Kế hoạch hành động giảm phát thải khí metan, Đề án phát triển thị trường carbon trong nước. Đến nay, lượng phát thải CO₂ trên GDP của Việt Nam đã giảm khoảng 8% so với năm 2020, nhờ chuyển đổi năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và nỗ lực trồng mới, phục hồi rừng.
Đến năm 2024, độ che phủ rừng toàn quốc đạt hơn 42%, duy trì ổn định nhiều năm liền, một thành tựu được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Trong lĩnh vực chuyển đổi số, với việc thực hiện Đề án chuyển đổi số quốc gia, ngành TN&MT đã triển khai cơ sở dữ liệu thống nhất, kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư, doanh nghiệp và đất đai. Tính đến năm 2025, 100% hồ sơ đất đai được tiếp nhận và giải quyết trực tuyến, 80% dịch vụ công của ngành được cung cấp mức độ 4.
Hệ thống Cổng dữ liệu mở của Bộ cho phép người dân, doanh nghiệp truy cập thông tin về đất đai, môi trường, khí tượng thủy văn, bản đồ địa lý… điều này đã góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch, giảm nhũng nhiễu và chi phí tuân thủ pháp luật.
Đồng hành cùng Chính phủ kiến tạo
Nhìn lại toàn bộ nhiệm kỳ 2021–2025, có thể thấy ngành NN&MT nói chung và lĩnh vực tài nguyên môi trường nói riêng không chỉ là cơ quan quản lý tài nguyên, mà còn là lực lượng kiến tạo thể chế, đổi mới phương thức phát triển. Từ những kết quả cụ thể như hoàn thiện pháp luật, số hóa quản lý đất đai, giảm phát thải, bảo vệ rừng, ứng phó biến đổi khí hậu… ngành đã và đang đặt nền móng cho phát triển bền vững, thịnh vượng và xanh hơn cho Việt Nam.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà. Ảnh: Khương Trung
Như lời của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà từng đánh giá, ngành NN&MT phải dựa trên những lợi thế và cơ hội hiện có, với sự ủng hộ của toàn dân, để phục hồi, bảo tồn, bảo vệ môi trường, phát triển và thực hiện chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu. Chiến lược này sẽ giúp Việt Nam, một nước đi sau, có thể trở thành một nước tiên tiến, thay đổi những nguồn năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo và áp dụng kinh tế tuần hoàn trong mọi lĩnh vực kinh tế.
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng cũng cho biết kinh tế tri thức sẽ thay thế tư duy khai thác triệt để tài nguyên. Mặc dù tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, nhưng sự phục hồi và phát triển bền vững dựa trên kinh tế sinh thái mới là định hướng đúng đắn.
“Chúng ta không bị động mà phải chủ động dẫn dắt quá trình chuyển đổi này. Khi chúng ta chuyển đổi thành công kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và năng lượng xanh, vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu sẽ trở thành sự đồng hành của doanh nghiệp và nhân dân.”, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định.