Thành ngữ thời bao cấp

Đặng Quỳnh Lê - Thứ Tư, 05/10/2022 , 06:10 (GMT+7)

Có câu thành ngữ 'ăn như sư, ở như phạm', mô tả cuộc sống khó khăn của sinh viên sư phạm thời kì này mà không ít người biết.

Hình ảnh người dân xếp hàng mua thực phẩm thời bao cấp. Ảnh: Nguyễn Trọng Tạo.

Thời bao cấp là một thuật ngữ để chỉ một giai đoạn được cho là từ khoảng từ năm 1975 tới năm 1986, khi đời sống kinh tế của người dân đều được Nhà nước chi trả, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa.

Nghĩa là, phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo tem phiếu do Nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế việc người dân tự do mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hóa từ địa phương này sang địa phương khác.

Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, thời cao cấp được cho là một thời kì mà đời sống nhân dân rất khó khăn. Khi đối mặt với các vấn đề khó khăn kinh tế, thật đáng ngạc nhiên những câu thành ngữ thịnh hành vào thời kì đó một mặt phản ánh chính xác thực tiễn cuộc sống, mặt khác lại có tính chất hài hước, tiếu lâm mà hiện nay vẫn được dùng đối với những người đã sống qua thời bao cấp.

Ví như câu thành ngữ, “buồn như mất sổ gạo”. Thời kì bao cấp, chế độ hộ khẩu được thiết lập nhằm phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định bắt buộc và mặt hàng mà một gia đình nào đó được phép mua.

Cho nên sổ gạo trở nên rất quan trọng, nếu mất sổ thì là một tai họa cho một gia đình, trong thời gian chờ sổ mới không có lương thực để ăn. Thế nên thấy ai vẻ mặt buồn bã hay ngơ ngẩn vì chuyện gì, người ta lại ví von tiếu lâm “buồn như mất sổ gạo” hay “ngẩn ngơ như người mất sổ gạo”.

Tuy nhiên không phải câu thành ngữ nào cũng có một cấu trúc so sánh dễ hiểu như vậy, có thể hiểu theo nghĩa đen. Dưới đây là một vài câu thành ngữ mà ta cần phải đặt trong bối cảnh xã hội lúc đó mới có thể phần nào thấu hiểu.

Đừng thách nhà giàu húp tương

Tương vốn là một thức ăn phổ biến ở nông thôn, nhà giàu có thể dùng tương nhưng chỉ để kho cá, nước chấm, và dùng với tần suất không cao. Nhà nghèo thì có thể dùng tương để ăn như một thức ăn cùng với cơm mang tính chất thường xuyên. Nên tương - cà, hay cua - cáy, lươn - chạch thường gắn với người nghèo.

Nhưng tại sao lại thách nhà giàu húp tương? Lý do là những người có thể gọi là giàu có đã sống qua thời bao cấp rồi đến thời đổi mới, họ làm nhiều nghề khác nhau để mưu sinh, dẫn tới sự từng trải. Ví dụ ta thấy một người kể là "Quá trình thời thanh niên tôi đi mua chổi đót, lá chít từ trên này xuống Hà Nội, đã có những lúc tôi lạc trong rừng, ngủ trong rừng. Từ ngày xửa xưa tôi còn làm men nấu rượu, làm bánh kẹo, làm giá đỗ, tôi chả thiếu nghề gì trên đời" hoàn toàn có thể đúng với thực trạng thời kì đó.

Ngay như trong gia đình người viết, cha người viết là một giáo viên cấp 2, sinh năm 1960, nhưng vào những năm thập niên 80 và đầu những năm thập niên 90 thì lương giáo viên rất thấp. Vì vậy để kiếm thêm thu nhập, ông đã làm rất nhiều nghề, như làm ruộng, trồng chuối, tiêu, nuôi cá, lợn, dê, gà, nấu rượu. Nghĩa là làm bất cứ nghề gì để có thể có thu nhập. Một số giáo viên còn đi buôn, đi ngược nguồn, thậm chí phiêu lưu hơn là đi đào vàng. Thực trạng ấy cũng không xa lạ gì đối với nhiều người khác.

Vì vậy, nói “đừng thách nhà giàu húp tương” nghĩa là người nói gửi một thông điệp tới người nghe rằng: Tuy tôi giờ có khấm khá hơn, có thể có địa vị xã hội hoặc không phải làm những công việc nặng nhọc nhưng đừng nghĩ rằng tôi không biết, không có sự từng trải. Những gì anh biết có thể tôi đã trải qua hết rồi. Và anh nên tôn trọng tôi và ứng xử cho phù hợp, tôi không phải là người có thể qua mặt được.

Ý nghĩa của nó mới phản ánh được thực tế đời sống sinh hoạt lúc đó, cách giải thích của một số nguồn cho rằng “thách một người làm việc gì quá dễ dàng với họ” là cách giải thích theo nghĩa đen có phần giản đơn và không đặt vào bối cảnh xã hội thích hợp.

Ăn như sư, ở như phạm

Vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động Phong trào Bình dân học vụ và đã thu được thành tựu to lớn bằng việc xóa mù chữ cho hàng triệu người. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ đạo thành lập một hệ thống đào tạo giáo viên ngay cả trong chiến tranh chống Pháp.

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thành lập vào năm 1951, sau đó các trường sư phạm khác được thành lập như Đại học Sư phạm Vinh (1959), Đại học Sư phạm Thái Nguyên (1966). Các sinh viên sư phạm được nhà nước nuôi ăn học, học trò được miễn học phí. Y tế và sư phạm được coi là hai viên ngọc sáng lấp lánh của đất nước.

Nhưng đối với ngành giáo dục nói chung, ngân sách quốc gia được cấp cực kì giới hạn, trong khi nhu cầu rất cao. Các trường đại học đều phải chịu áp lực tài chánh rất lớn để hỗ trợ việc học tập và đời sống của sinh viên. Câu thành ngữ “ăn như sư, ở như phạm” mô tả cuộc sống khó khăn của sinh viên sư phạm thời kì này. Ăn như sư nghĩa là ăn uống kham khổ như các nhà sư; ở như phạm tức là nơi ở chật chội, kém vệ sinh như phòng của phạm nhân.

Thành ngữ sử dụng cách chơi chữ, bằng cách “chẻ đôi” từ sư - phạm ra bằng hai phép so sánh. Cách chơi chữ này khiến cho việc dịch thành ngữ này sang ngôn ngữ khác là không thể chuyển tải hết được ý tứ của nó. Dịch giả Lady Borton khi dịch câu này sang tiếng Anh trong sách "Family friend and country" của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình là: “eat like begging monks, live like prisoners” Có một vài câu thành ngữ khác cũng có nội dung tương đương, đó là “Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạm bỏ qua”, hoặc “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”.

Khi tìm hiểu một số thành ngữ thời bao cấp chúng ta có thể thấy muôn mặt đời sống xã hội sống động lúc đó. Nó như một vở bi hài kịch có nhiều mặt trái ngược, vừa buồn vừa hài hước, vừa nhớ vừa thương, vừa là một kỉ niệm nhưng có lẽ không ai muốn lặp lại. Nó cũng phản ánh phần nào tính cách tốt đẹp người dân Việt Nam, trong lúc khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan để vươn lên.

Năm 1986, công cuộc Đổi Mới bắt đầu, nền kinh tế kế hoạch chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cuộc sống người dân tốt hơn. Những thành ngữ, tục ngữ, ca dao có thể nói có phần méo mó tự nhiên mất đi như hai câu trên, hoặc các câu như “ăn bẩn sống lâu”, hay “sống mà ăn sắn”.

Đặng Quỳnh Lê
Tin khác
Lạc vào cuộc ‘đua thuyền’ truyền hình Quảng Bình
Lạc vào cuộc ‘đua thuyền’ truyền hình Quảng Bình

Không có hàng ngàn cổ động viên reo hò, nhưng tôi đã tưởng tượng là ê kíp truyền hình trực tiếp đang chèo một con thuyền chở văn hóa Quảng Bình đi khắp muôn nơi...

Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp
Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp

Dù khiêm tốn đến mấy, hẳn ông Lê Nam Sơn, ông Trịnh Bá Ninh và các biên tập viên kỳ cựu của báo đều không thấy chướng khi nói rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần làm nên, làm vững chắc thêm hiện tượng Báo Nông nghiệp Việt Nam số Tết trong làng báo nước nhà.

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Xuất xứ cuốn truyện 'Mồ cô Phượng'
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Xuất xứ cuốn truyện 'Mồ cô Phượng'

Ông bạn già kính mến của tôi thầm lặng viết 'Mồ cô Phượng', ở trong các tiệm ăn, ngoài đường, quán chợ, bến tàu. Vậy mà tuyệt nhiên không nói với tôi một lời.

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Hoàng Tích Chu - Khí phách một nhà báo
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Hoàng Tích Chu - Khí phách một nhà báo

Tôi say sưa đọc đi đọc lại bài báo của Hoàng Tích Chu. Với bài báo này, anh đã để lại trong tôi cái ấn tượng tốt đẹp của khí phách một người làm báo.

Cây liễu trước gió thôn tôi
Cây liễu trước gió thôn tôi

Tổng kết UBMTTQ huyện Quỳnh Lưu, tôi ngỡ ngàng khi thấy Bí thư Chi bộ thôn tôi Cù Thị Nhàn trong bộ áo dài vàng thướt tha lên sân khấu nhận bằng khen.

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Những tình duyên lỡ dở
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Những tình duyên lỡ dở

Ở ngoài có bao nhiêu việc đáng nói, ở trong lòng tôi có bao nhiêu điều đáng viết ra, mà không nói, không viết nó lên giấy để cho nó như đã thành một thứ men rượu trong người thế này thì chịu sao được nổi nữa!

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Nghề đạm bạc
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Nghề đạm bạc

Kể lại những chuyện thiệt mình của nhà báo chúng tôi thì nhiều lắm, bằng chép bộ Bách khoa từ điển hay bộ Sử ký Tư Mã Thiên cũng nên...

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Bước đầu làm báo
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Bước đầu làm báo

Kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025), Báo Nông nghiệp và Môi trường trân trọng trích đăng hồi ức nghề báo của Nhà báo lão thành Phùng Bảo Thạch thay lời tri ân đến nhiều thế hệ làm báo nước ta.

‘Tay chơi’ Đặng Huy Trứ
‘Tay chơi’ Đặng Huy Trứ

‘Tay chơi’ Đặng Huy Trứ là nhà cải cách lớn, góp phần khơi gợi tư tưởng canh tân và khai hóa vào giữa thế kỷ XIX ở Việt Nam.

‘Em bé Napalm’ trần tình về nhiếp ảnh gia Nick Ut
‘Em bé Napalm’ trần tình về nhiếp ảnh gia Nick Ut

‘Em bé Napalm’ là bức ảnh nổi tiếng nhất về chiến tranh Việt Nam, sau nửa thế kỷ lại xôn xao dư luận về câu chuyện bản quyền liên quan đến tác giả Nick Ut.

Viết về Bác như cuộc đời đã chọn
Viết về Bác như cuộc đời đã chọn

Nguyễn Hưng Hải là trường hợp đặc biệt trong số các nhà văn, nhà thơ dành cả cuộc đời, phần lớn thi nghiệp theo đuổi đề tài về Bác Hồ.

100 năm Ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi
100 năm Ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi

Nhắc đến Đoàn Giỏi là nhắc đến 'Đất rừng phương Nam'. Thế nhưng, nhà văn của Nam Bộ ấy còn được công chúng yêu mến bởi rất nhiều những tác phẩm bất hủ khác.

Sự kiện

Câu chuyện từ quả tầm bóp*

Câu chuyện từ quả tầm bóp*

Tri thức nông dân
Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp

Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt
Khát vọng Điện Biên

Khát vọng Điện Biên

Tri thức nông dân