Tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ từ hệ thống 125 làng nghề trên toàn tỉnh
Hiện toàn tỉnh Thanh Hóa có 125 làng nghề đang hoạt động, trong đó 85 làng nghề truyền thống và 40 làng nghề mới, tạo việc làm cho khoảng 70.000 lao động. Nhiều nhóm nghề đã trở thành “trụ cột” kinh tế của từng địa phương: Nhóm dệt chiếu cói với 30 làng nghề tại các huyện cũ Nga Sơn, Nông Cống, Quảng Xương, giải quyết việc làm cho 7.000 lao động. Nhóm mây tre đan có 25 làng nghề ở Hoằng Hóa, Thọ Xuân, Cẩm Thủy (cũ) thu hút 3.000 lao động; Nhóm mộc gồm 7 làng nghề, tạo việc làm ổn định cho 2.000 lao động; Nhóm rèn, đúc đồng có 5 làng nghề tại Hậu Lộc và Thiệu Hóa cũ, đóng góp quan trọng vào kinh tế hộ gia đình.
Mô hình phát triển rau sạch trong xây dựng nông thôn mới ở Điền Lư. Ảnh: Thu Thủy.
Để thúc đẩy tiểu thủ công nghiệp (TTCN), tỉnh Thanh Hóa đã triển khai đồng bộ nhiều cơ chế, chính sách. Theo Quyết định 4182/QĐ-UBND, tỉnh thực hiện kế hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề giai đoạn 2021– 2030 theo Quyết định 801/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cùng với đó, Nghị quyết 121/2021/NQ-HĐND tạo “cú hích” lớn trong giai đoạn 2022-2026 khi hỗ trợ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp - làng nghề với mức 1-1,5 tỷ đồng/ha cho địa phương 30a; 0,7 tỷ đồng/ha cho khu vực miền núi khác và 0,5 tỷ đồng/ha cho đồng bằng, ven biển. Tổng mức hỗ trợ mỗi cụm công nghiệp có thể lên tới 20 tỷ đồng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và HTX đầu tư máy móc, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất.
Nhờ các chính sách đồng bộ và tinh thần sáng tạo trong dân, nhiều nghề truyền thống được hồi sinh mạnh mẽ; các mô hình TTCN hiện đại xuất hiện ngày càng nhiều, gắn kết sản xuất với thị trường theo chuỗi giá trị. Các xưởng dệt chiếu, cơ sở chế biến lâm sản, xưởng cơ khí hay những tổ hợp tác mây tre… đang cùng nhau tạo nên diện mạo mới cho nông thôn xứ Thanh.
Khởi nguồn từ nghề truyền thống đến mô hình sinh kế bền vững
Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại đã giúp TTCN trở thành động lực quan trọng của kinh tế nông thôn Thanh Hóa - nơi mỗi bàn tay lao động không chỉ làm ra sản phẩm, mà còn thổi hồn vào sự đổi thay của quê hương. Đây cũng là hướng đi thiết thực để hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025-2030.
Nghề đan lát mây tre đan đã gắn bó với đời sống người Mường, xã Điền Quang. Ảnh: Thu Thủy.
Tại xã miền núi Điền Quang, với nghề đan lát tre, luồng đã gắn bó với đời sống người Mường từ bao đời. Tuy nhiên, nghề truyền thống này trước đây chỉ tồn tại lặng lẽ trong các hộ gia đình, sản phẩm chủ yếu dùng trong sinh hoạt, chưa tạo ra giá trị kinh tế. Năm 2021, nhận thấy lợi thế về nguyên liệu với hơn 30 ha tre và luồng tại thôn Lau và thôn Chiềng, phụ nữ Mường, Phạm Thị Chiến đã quyết định thành lập Tổ hợp tác (THT) mây tre đan thôn Lau, mở ra hướng phát triển mới cho cộng đồng.
Thời kỳ đầu, THT đối mặt hàng loạt khó khăn: thiếu vốn, thiếu dụng cụ, tay nghề không đồng đều và thị trường tiêu thụ hạn chế. Tuy vậy, mục tiêu giữ nghề truyền thống, tạo việc làm tại chỗ cho phụ nữ nghèo, người trung niên không thể đi làm xa đã giúp các thành viên kiên trì vượt khó.
Bước ngoặt đến khi THT kết nối với Công ty CP Ngọc Sơn, doanh nghiệp có kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu mây tre. Nhờ được hỗ trợ đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế và cung cấp mẫu thiết kế phù hợp thị trường châu Âu, năng lực sản xuất của tổ nâng lên rõ rệt. Sản phẩm ngày càng tinh xảo, đồng nhất và đủ chất lượng để xuất khẩu.
Đến nay, THT có 55 thành viên (49 người là phụ nữ Mường). Trong đó, 15 người làm việc thường xuyên với thu nhập 5-6 triệu đồng/tháng; hơn 120 lao động thời vụ được tạo điều kiện kiếm thêm 2-3 triệu đồng/tháng. Ngoài việc nâng cao tay nghề, THT còn trở thành “lớp học cộng đồng”, nơi phụ nữ học cách quản lý đơn hàng, làm việc theo nhóm, sáng tạo mẫu mã mới và ứng dụng mạng xã hội để bán hàng nội địa.
THT cũng chú trọng yếu tố môi trường khi tái sử dụng vật liệu thừa, giảm rác thải nhựa và tận dụng phế liệu để làm sản phẩm phụ. Nhờ sự sáng tạo và đoàn kết, sản phẩm của tổ đã đạt nhiều giải thưởng tại cuộc thi “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh” và trở thành điểm sáng trong phong trào phát triển sinh kế gắn với bảo tồn văn hóa người Mường.

















