Công nghệ lạc hậu
Theo ông Hà Thế Vinh, Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Quảng Ngãi, hiện công ty quản lý, vận hành 24 hồ chứa nước. Trong đó, có 19 hồ vừa và 5 hồ lớn với tổng dung tích khoảng 370 triệu m3. Ngoài ra, công ty còn đang quản lý 7 đập dâng; 6 đập ngăn mặn và 2 cống tiết thủy; 16 trạm bơm và hệ thống kênh tiêu có chiều dài 75km, 178 công trình trên kênh cùng hệ thống kênh tưới với tổng chiều dài 599km và 4.910 công trình trên kênh.

Hầu hết các công trình thủy lợi ở Quảng Ngãi đều sử dụng công nghệ lạc hậu. Ảnh: Phương Chi.
Các hệ thống công trình thủy lợi nói trên được đưa vào khai thác đã hơn 30 năm, nên đã xuống cấp. Ngoài ra, hầu hết các công trình đều sử dụng công nghệ lạc hậu; công tác quản lý, vận hành công trình chủ yếu bằng thủ công nên tiêu tốn lớn nguồn nhân lực, chi phí quản lý, vận hành tăng cao.
Đáng quan ngại nhất là hệ thống kênh mương chưa được đầu tư đồng bộ và khép kín từ đầu mối đến mặt ruộng, nên gây thất thoát, lãng phí tài nguyên nước; ngoài chưa phát huy hết hiệu quả của công trình, còn gây ra tình trạng hạn, úng cục bộ, đồng thời công tác quản lý, vận hành, điều tiết gặp rất nhiều khó khăn.
Ông Vinh chia sẻ, hệ thống công trình thuỷ lợi do công ty quản lý, khai thác có số lượng rất lớn, nằm tại nhiều địa phương; địa hình khu tưới phức tạp, địa bàn trải rộng; một số công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp như các hồ chứa nước Nước Trong, Liệt Sơn, Núi Ngang, công trình đầu mối Thạch Nham, đập ngăn mặn Trà Bồng… đòi hỏi cần phải có nguồn kinh phí lớn để bảo trì, sửa chữa, nhưng thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
“Người dân còn tự ý đóng, mở các cống tưới, đào xẻ kênh đặt lù bộng, gây khó khăn cho việc điều tiết nước. Có thời điểm đầu kênh thừa nước nhưng cuối kênh thiếu nước, nhất là những tuyến kênh cấp 2 tưới cho liên huyện, liên xã, gây ra úng, hạn giả tạo”, ông Vinh chia sẻ.
Thiết bị cảnh báo sớm hỗ trợ đắc lực
“Hiện ở Quảng Ngãi có 20/24 hồ vẫn quan trắc bằng thủ công, chưa có hệ thống thông tin trực tuyến thời gian thực. Khi có mưa lớn cục bộ trong thời gian ngắn trên lưu vực lòng hồ, thì công tác cảnh báo, dự báo lũ sẽ không kịp thời, thiếu chính xác dẫn đến nguy cơ mất an toàn rất cao”, ông Vinh cho hay.
Trong những năm qua, công ty đã được hỗ trợ thiết bị hiện đại để vận hành hồ chứa trong tình huống khẩn cấp, cũng như hệ thống thông tin quản lý thiên tai.

Việc lắp đặt thiết bị cảnh báo sớm tại các hồ chứa giúp đơn vị vận hành đưa ra giải pháp ứng phó kịp thời. Ảnh: Phương Chi.
Hiện nay, tất cả các hồ chứa đã được lắp đặt thiết bị đo mưa tự động, 4 hồ có tràn cửa van và đập dâng Thạch Nham đã được lắp đặt camera quan trắc để giám sát mực nước, độ mở tràn và hệ thống quan trắc mực nước tự động.
Việc xây dựng bản đồ ngập lụt và phương án ứng phó tình huống khẩn cấp đã được thực hiện đối với 19/24 hồ chứa, hệ thống cảnh báo lũ sớm đã được lắp đặt ở hầu hết tại các cầu tràn trũng thấp.
Đặt biệt, hệ thống Scada tại hồ chứa nước Nước Trong với 7 trạm đo mưa trên lưu vực lòng hồ và hệ thống Scada tại đập dâng Thạch Nham do Bộ NN-PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đầu tư, được đưa vào sử dụng từ năm 2020 đã giúp ngành chức năng thuận lợi trong việc theo dõi, cập nhật thông tin về tình hình mực nước thượng lưu. Theo dõi lượng mưa, lưu lượng nước đến hồ kết hợp với các bản tin dự báo thời tiết, tình hình diễn biến của mưa, lũ, mực nước tại Trạm thủy văn Trà Khúc.
Kết hợp sử dụng mô hình cảnh báo sớm 72 giờ từ các nguồn dự báo tin cậy của hệ thống Scada để đưa ra quyết định vận hành, điều tiết hồ phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo cắt giảm lũ cho hạ du. Nhờ đó, công trình được bảo đảm an toàn, an tâm tích nước cuối mùa lũ để phục vụ sản xuất cho năm sau theo đúng quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Trà Khúc được Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Hệ thống Scada lắp đặt tại các hồ chứa. Ảnh: Phương Chi.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống Scada do Công ty Khai thác công trình thủy lợi Quảng Ngãi sử dụng vẫn còn phụ thuộc vào đơn vị cung cấp; chưa chủ động được trong công tác chỉnh sửa nội dung; chưa khai thác triệt để năng lực của hệ thống do thiếu bộ phận chuyên môn.
Ngoài khó khăn về vấn đề chi phí tốn kém khi lắp đặt, hệ thống Scada tại các công trình và trạm đo mưa lưu vực phải thường xuyên hoạt động ngoài trời với điều kiện khắc nghiệt, nên ảnh hưởng đến tuổi thọ của thiết bị, dẫn tới chi phí bảo trì lớn; vị trí lắp đặt thiết bị khó tiếp cận bởi các trạm đo mưa ở trên núi, sâu trong lòng hồ, khiến công tác bảo dưỡng thường xuyên, bảo vệ thiết bị gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, công tác theo dõi, phân tích số liệu, sử dụng mô hình dự báo sớm của hệ thống cần cán bộ có chuyên môn, am hiểu hệ thống, được qua các lớp tập huấn, đào tạo. Thế nhưng với năng lực của công ty hiện nay chưa đáp ứng được.
“Vì vậy, để đảm bảo hệ thống hoạt động xuyên suốt, ổn định thì hàng năm đòi hỏi nguồn lực rất lớn; trong khi nguồn thu từ giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi hiện tại của công ty không đủ trang trải cho công tác bảo trì công trình, kênh mương phục vụ sản xuất và chi phí quản lý”, ông Hà Thế Vinh chia sẻ.
Để khắc phục khi chưa có kinh phí hỗ trợ từ nguồn ngân sách tỉnh, trước mắt, bằng nguồn chi phí bảo trì hàng năm, công ty tiếp tục duy trì hệ thống Scada tại các công trình lớn, trọng điểm của tỉnh bảo đảm hoạt động xuyên suốt, ổn định.
Bên cạnh đó, bằng nguồn lực con người tại chỗ, công ty tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ chuyên môn để từng bước tiếp cận, ứng dụng và làm chủ công nghệ trong quá trình vận hành, bảo trì thiết bị đo mưa, cảnh báo lũ sớm trên các công trình thủy lợi.
Việc lắp đặt thiết bị công nghệ trên các hồ chứa đã giúp công ty theo dõi, cập nhật thông tin về tình hình mực nước thượng lưu, lượng mưa, trên cơ sở mô hình cảnh báo sớm đưa ra quyết định vận hành, điều tiết hồ cho phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo cắt lũ cho hạ du, công trình vận hành an toàn, tích nước cuối mùa lũ đảm bảo phục vụ sản xuất cho năm tiếp theo.