| Hotline: 0983.970.780

Cùng ĐBSCL ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu:

Thủy lợi thích ứng - giải pháp dài hơi

Thứ Ba 30/09/2025 , 06:55 (GMT+7)

Thủy lợi thích ứng trở thành chìa khóa bảo đảm an ninh nguồn nước, nâng đỡ sinh kế, hướng tới phát triển bền vững ĐBSCL trước thách thức từ thượng nguồn, biển và nội tại.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đối diện ba thách thức lớn: từ thượng nguồn sông Mekong, tác động từ biển và những thách thức nội tại. Đây là các yếu tố mang tính nghiêm trọng, trong đó những yếu tố đến từ bên ngoài gần như khó kiểm soát, đòi hỏi cách tiếp cận khoa học và chủ động, còn thách thức nội tại đòi hỏi sự chủ động ứng phó dài hơi.

Trạm bơm Kênh 3 tháng 2 (Trà Vinh). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Trạm bơm Kênh 3 tháng 2 (Trà Vinh). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Ba thách thức lớn

Từ thượng nguồn, việc xây dựng hồ chứa và khai thác nước gia tăng đã làm thay đổi cấu trúc dòng chảy về ĐBSCL, khiến bùn cát suy giảm nghiêm trọng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự bồi đắp phù sa và ổn định sinh thái. Tuy nhiên, cũng có mặt tích cực: lũ giảm ở vùng thượng và dòng chảy mùa khô gia tăng, phần nào hạn chế xâm nhập mặn ven biển.

Ở phía biển, mực nước dâng trung bình theo thời gian làm tình trạng ngập úng, xâm nhập mặn ngày càng phức tạp. Trong khi đó, nội tại đồng bằng lại chịu áp lực nặng nề từ tình trạng sụt lún đất trung bình 1-3 cm mỗi năm, lớn hơn nhiều so với tốc độ nước biển dâng. Hệ quả là ĐBSCL đang bị hạ thấp nhanh chóng, dẫn đến nguy cơ ngập trên diện rộng và kéo dài trong tương lai trở thành một thách thức lớn nhất.

Theo ThS Trần Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Thủy nông và Cấp nước (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam), sự cộng hưởng của ba yếu tố trên đã và đang đặt ra hàng loạt thách thức nghiêm trọng: an ninh nguồn nước, ngập diện rộng và suy thoái đồng bằng (xói lở bờ sông, bờ biển, hạ thấp địa hình). Trước thực tế này, định hướng chiến lược không thể khác ngoài “thích nghi có kiểm soát”, tức chủ động bố trí sản xuất và phát triển theo khả năng nguồn nước. Để phát triển bền vững, ĐBSCL cần mô hình thủy lợi chủ động theo sinh thái từng vùng: thủy sản mặn lợ ven biển, cây ăn trái và lúa gạo.

Ở ven biển, khi thiếu nước ngọt vào mùa khô, lúa chịu tác động nặng nề của xâm nhập mặn. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã đề xuất hệ thống công trình “hai trong một”: vừa kiểm soát mặn bằng cống, vừa tăng cường tích trữ nước ngọt bằng bơm khi triều thấp. Các trạm bơm Xuân Hòa (Tiền Giang cũ), trạm bơm Bà Xẩm (Cần Thơ), hay trạm bơm Cây Gáo - Rạch Đào (Tây Ninh) đã chứng minh hiệu quả. Đồng thời, mô hình kênh đa chức năng (mặn - ngọt luân phiên) đang áp dụng ở nhiều nơi, giúp nông dân linh hoạt trong sản xuất.

Mô hình tôm - lúa là một trong những giải pháp thích ứng thành công. Diện tích canh tác đã tăng gấp gần 5 lần trong vòng 10 năm qua, lên tới 170.000 ha năm 2024. Tuy nhiên, sự ổn định vẫn phụ thuộc vào điều kiện thủy văn từng năm. Để giảm rủi ro, Viện đã kiến nghị đầu tư các cụm công trình thủy lợi quy mô lớn để kiểm soát mặn - ngọt cho vùng Bắc Cà Mau, Đông Nam Cà Mau và tuyến Bạc Liêu - Cà Mau trong giai đoạn 2026-2030.

Mô hình tôm - lúa là một trong những giải pháp thích ứng thành công. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Mô hình tôm - lúa là một trong những giải pháp thích ứng thành công. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Với cây ăn trái, giải pháp trữ nước ngọt phân tán được xem là chìa khóa. Viện đã phối hợp cùng Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi ban hành “Sổ tay kỹ thuật trữ nước phân tán, tưới hiệu quả” để hướng dẫn nông dân từng loại cây đặc thù, nhất là trong mùa khô mặn.

Ở vùng lũ, hệ thống thủy lợi được nghiên cứu theo hướng khai thác hợp lý đất, nước trong bối cảnh lũ giảm, vừa đảm bảo sản xuất vừa duy trì sinh thái.

Cống Nguyễn Tấn Thành (Tiền Giang, nay là Đồng Tháp). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Cống Nguyễn Tấn Thành (Tiền Giang, nay là Đồng Tháp). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Kiểm soát mặn, trữ ngọt và điều tiết lũ

ThS Trần Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Thủy nông và Cấp nước cho biết, ba giải pháp trọng tâm để đảm bảo an ninh nguồn nước cho đồng bằng là: kiểm soát xâm nhập mặn, trữ ngọt đa cấp và điều tiết lũ nội vùng hợp lý.

Trong đó, kiểm soát mặn giữ vai trò then chốt, bảo vệ nguồn nước ngọt khỏi bị xâm hại. Giải pháp trữ ngọt cần triển khai từ quy mô lớn đến quy mô hộ gia đình, nhằm tạo hệ thống liên hoàn. Đặc biệt, công tác dự báo mặn với nhiều thời hạn khác nhau sẽ hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành công trình.

Đối với lũ, quan điểm thiết kế hệ thống thủy lợi cũng thay đổi khi lũ lớn ngày càng hiếm gặp. Các công trình không chỉ chống lũ mà còn hướng tới đa chức năng, như điều tiết nước phục vụ nông nghiệp, thủy sản, cấp nước sinh hoạt và giao thông thủy. Việc điều tiết lũ luân phiên trong các ô bao cũng đang được nghiên cứu để phù hợp với điều kiện mới.

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Thủy nông và Cấp nước cho biết thêm, ĐBSCL có hai vùng đặc biệt nhạy cảm: vùng lũ ngập sâu và vùng ven biển. Với vùng lũ, việc suy giảm tần suất lũ lớn đã mở ra cơ hội canh tác quanh năm, đa dạng mô hình sản xuất. Do đó, hệ thống thủy lợi cần được thiết kế linh hoạt, đa chức năng, đảm bảo cấp thoát nước cho sản xuất quanh năm.

Thủy lợi không chỉ dừng lại ở những công trình kiểm soát nước, mà còn là mắt xích quan trọng trong chuỗi sinh kế nông nghiệp bền vững của ĐBSCL. Khi thủy lợi chủ động được chế độ nước phù hợp, nông dân có thể yên tâm sản xuất, chuyển đổi mô hình linh hoạt và giảm rủi ro từ thiên tai.

Cống Phú Phong (Tiền Giang, nay là tỉnh Đồng Tháp). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Cống Phú Phong (Tiền Giang, nay là tỉnh Đồng Tháp). Ảnh: Nguyễn Thủy.

“Đảm bảo an ninh nguồn nước đồng nghĩa với đảm bảo sự sống còn của ĐBSCL. Thủy lợi thích ứng chính là giải pháp dài hơi, bền vững nhất là trước biến đổi khí hậu”, ThS Trần Minh Tuấn khẳng định.

Để đạt được điều đó, công trình thủy lợi không chỉ kiểm soát mặn, giữ ngọt, điều tiết nước lũ nội vùng mà còn phải góp phần ổn định sinh kế, giúp người dân yên tâm gắn bó với đồng bằng. Ngược lại, các hoạt động sản xuất cũng cần tương thích với khả năng của hệ thống thủy lợi. Chẳng hạn, mô hình tôm - lúa chỉ bền vững khi có hệ thống thủy lợi chủ động kiểm soát chế độ nước theo yêu cầu sản xuất, ít phụ thuộc hơn vào thiên nhiên.

“An ninh nguồn nước vì thế phụ thuộc phần lớn vào thủy lợi. Đặc biệt ở ven biển, công trình thủy lợi chính là “lá chắn” mạnh nhất kiểm soát xâm nhập mặn. Mặt khác, thủy lợi sẽ giúp phân phối lại nguồn nước ngọt giữa các vùng, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước tổng thể cho toàn đồng bằng”, ThS Trần Minh Tuấn nhấn mạnh.

Những mô hình đang được nghiên cứu và triển khai cho thấy, khả năng “sống chung thông minh” với hạn mặn, ngập lụt và sụt lún. Song song đó, việc kết hợp giải pháp công trình với phi công trình từ dự báo, quy hoạch sản xuất đến thay đổi sinh kế là chìa khóa lâu dài.

Xem thêm
Ông Lê Tiến Châu tiếp tục làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng nhiệm kỳ 2025-2030

Đại hội Đảng bộ Hải Phòng lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, đặt ra các đột phá chiến lược, phấn đấu trở thành đô thị công nghiệp hiện đại, văn minh, đáng sống.