
Hiện nay, nhiều vùng trồng lúa trọng điểm của Việt Nam sức khỏe đất đã suy giảm rõ rệt sau nhiều năm canh tác liên tục. Những mùa vụ nối tiếp nhau không đủ thời gian cho đất nghỉ ngơi, trong khi việc lạm dụng phân bón hóa học trong giai đoạn dài khiến đất mất dần khả năng tự điều hòa.
Theo các khảo sát gần đây, khoảng 40 - 45% diện tích đất nông nghiệp đang có dấu hiệu suy thoái ở các mức độ khác nhau, trong đó vùng lúa thâm canh 3 vụ ghi nhận tốc độ suy giảm hữu cơ nhanh nhất. Không ít nơi hàm lượng chất hữu cơ chỉ còn dưới ngưỡng 2%, thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu để hệ sinh vật đất phát triển bình thường.
Cùng với đó, độ pH của đất lúa đang giảm mạnh, đặc biệt tại Đồng bằng sông Hồng và một phần trung du miền núi phía Bắc, dẫn đến hiện tượng chua hóa kéo dài. Sự sụt giảm của vi sinh vật có lợi khiến tầng canh tác trở nên chai cứng, khả năng giữ nước và dinh dưỡng bị suy yếu.
Tại một số địa phương, tình trạng khô hạn, xâm nhập mặn, phèn tiềm tàng dưới tác động của biến đổi khí hậu càng khiến đất dễ tổn thương hơn. Dấu hiệu rõ ràng nhất là năng suất lúa chững lại, trong khi chi phí đầu vào phải tăng thêm để bù đắp những gì đất không còn tự cung cấp được.


Sức khỏe đất giảm không chỉ là vấn đề sinh học hay kỹ thuật thuần túy mà còn tác động trực tiếp tới kinh tế của từng hộ nông dân. Ruộng đất mất hữu cơ khiến cây lúa dễ đổ ngã, dễ nhiễm sâu bệnh, buộc người trồng lúa phải tăng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Chi phí sản xuất đội lên nhưng chất lượng hạt gạo lại khó nâng cao.
Nhiều nông dân thừa nhận, dù vẫn được mùa nhưng lúa “không còn khỏe như trước”, cây lúa mỏng manh hơn, ruộng đồng không còn độ tơi xốp vốn có. Đó là những chỉ dấu cho thấy đất đang mệt mỏi và không còn đủ sức nuôi cây lâu dài nếu không được bồi đắp lại.
Từ thực tế ở địa phương, bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng cho biết, tình trạng suy giảm sức khỏe đất không còn là cảnh báo xa xôi. Không chỉ Hải Phòng mà nhiều vùng sản xuất khác cũng đang đối mặt với nguy cơ “đất yếu” khi những cánh đồng đã dần trở nên “mệt mỏi” sau nhiều năm thâm canh với những mùa vụ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ.
Nhắc lại bài học từng xảy ra ở tỉnh Hải Dương (cũ), bà Kiểm kể về thời kỳ phong trào trồng dưa hấu, dưa lê phát triển rầm rộ, mang lại thu nhập tốt cho nông dân. Cho đến một mùa, những luống dưa bỗng đồng loạt vàng lá, rụi dần rồi chết hàng loạt.

Nghĩ cây thiếu dinh dưỡng, bà con tăng phân bón, tăng thuốc bảo vệ thực vật, thế nhưng càng bón, càng phun dưa càng lụi tàn. Chỉ đến khi mẫu đất được đưa đi xét nghiệm, nguyên nhân mới dần lộ ra. Đó là đất đã thật sự “ốm yếu” khi hữu cơ cạn kiệt, pH tụt thấp, hệ sinh vật đất gần như biến mất sau nhiều năm khai thác quá sức.
“Đến lúc ấy, chúng tôi hiểu rằng không thể cứu cây khi đất đã yếu. Muốn cây khỏe phải bắt đầu từ việc phục hồi sức khỏe đất. Từ nhận thức đó, địa phương thay đổi cách tiếp cận, chú trọng cải tạo, trả lại sinh lực cho đất như chăm một cơ thể đang suy kiệt”, bà Kiểm chia sẻ.
Theo bà Kiểm, câu chuyện của địa phương đã đặt ra vấn đề cho các cơ quan quản lý, chính quyền và đội ngũ kỹ thuật phải giúp người dân hiểu rằng đất không chỉ là nền tảng để canh tác mà là nguồn sống của cả hệ thống sản xuất. Ở Hải Phòng hiện nay, nông dân có thu nhập cao từ nông nghiệp, đặc biệt trên diện tích rau màu vụ đông rất lớn, việc nhận thức đúng về sức khỏe đất chính là nền tảng để hướng tới một nền nông nghiệp xanh, hiệu quả và bền vững.

Thực tế cho thấy, dù nhiều chương trình phục hồi đất lúa đã được khởi động nhưng việc triển khai trên thực tế vẫn gặp rất nhiều trở ngại. Khó khăn lớn nhất đến từ nhận thức và thói quen canh tác. Nhiều nông dân vẫn quen với việc bón nhiều phân vô cơ, coi đó là “bảo bối” đảm bảo năng suất, trong khi chưa hiểu rõ lạm dụng phân vô cơ là nguyên nhân khiến đất chai cứng.
Khảo sát tại một số vùng lúa thâm canh cho thấy 70 - 80% hộ nông dân vẫn ưu tiên phân NPK hơn phân hữu cơ, chủ yếu vì giá rẻ, thấy hiệu quả nhanh và tiện dụng, trong khi phân hữu cơ hoặc chế phẩm sinh học chưa được coi trọng và thường bị xem là làm chậm sinh trưởng cây trồng.
Hạ tầng và kỹ thuật phục vụ cải tạo đất cũng còn thiếu. Hiện mới chỉ khoảng 20 - 25% diện tích rơm rạ được thu gom hoặc xử lý làm phân bón. Phần lớn vẫn bị đốt tại đồng ruộng do thiếu máy móc, thiếu dịch vụ thu gom hoặc không có nơi chế biến.
Công tác phân tích, đánh giá sức khỏe đất còn hạn chế khi nhiều tỉnh không có mạng lưới quan trắc đất định kỳ khiến chính quyền và nông dân không biết rõ đất đang thiếu gì để điều chỉnh kịp thời. Ngay cả đội ngũ cán bộ kỹ thuật cũng quá mỏng, nhiều nơi chỉ có 3 - 4 cán bộ khuyến nông phụ trách đến vài xã, không thể theo sát từng vùng sản xuất.


Khó khăn lớn khác nằm ở cơ chế và thị trường. Mặc dù Nhà nước khuyến khích sử dụng phân hữu cơ và tái chế phụ phẩm nông nghiệp nhưng chi phí đầu tư ban đầu cao, trong khi thị trường cho nông sản “sản xuất xanh” chưa đủ rộng để tạo động lực thay đổi.
Các doanh nghiệp muốn đầu tư nhà máy xử lý rơm rạ, sản xuất phân hữu cơ lại gặp vướng mắc về quy hoạch đất đai, thủ tục môi trường hoặc thiếu cơ chế hỗ trợ dài hạn. Ở nhiều địa phương, mô hình cải tạo đất từ các dự án chỉ dừng ở quy mô nhỏ, chưa trở thành phong trào rộng khắp.
Sự kết hợp của những yếu tố trên khiến hành trình phục hồi sức khỏe đất dù đã bắt đầu nhưng còn chậm và thiếu lan tỏa. Đất đang suy thoái nhanh hơn khả năng phục hồi, trong khi những biện pháp bảo vệ đất vẫn chưa đi sâu được vào từng thửa ruộng, từng hộ nông dân.
Trong bối cảnh đất lúa đang chịu nhiều áp lực, ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa với nền nông nghiệp Việt Nam khi chiếm 33,7% diện tích đất canh tác và gắn trực tiếp với sinh kế của gần 62% dân số nông thôn. Tuy nhiên, nhiều vùng đất lúa sau nhiều năm thâm canh đã suy giảm đáng kể về cấu trúc, cân bằng hóa học và hệ vi sinh vật, dẫn đến năng suất và chất lượng lúa khó cải thiện.

Theo ông Dũng, khó khăn còn nằm ở nhận thức và thói quen canh tác. Nhiều nông dân vẫn bón quá nhiều phân vô cơ, ít bổ sung hữu cơ, trong khi việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chưa hợp lý. Biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, khô hạn kéo dài, lũ lụt và sạt lở cũng làm sức chịu đựng của đất yếu đi nhanh chóng. Hạ tầng xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp còn hạn chế, mạng lưới quan trắc đất định kỳ chưa phổ biến và năng lực cán bộ kỹ thuật mỏng khiến việc theo sát và hỗ trợ người dân chưa hiệu quả.
“Lực lượng cần hiểu rõ nhất về sức khỏe đất phải là nông dân, nhà quản lý và doanh nghiệp. Họ phải biết đất của mình đang khỏe hay đã yếu, đặc biệt ở những vùng trồng cây chủ lực”, ông Dũng nhấn mạnh.
Ông cũng cho rằng phục hồi độ phì nhiêu của đất lúa là chiến lược dài hơi, đòi hỏi tác động đồng thời lên cấu trúc, hóa học và hệ vi sinh vật, đây là 3 yếu tố nền tảng quyết định tính bền vững của ngành lúa gạo. Để đất khỏe trở lại, cần trả lại cho đất những gì đất đã cho đi, tái tạo chất hữu cơ, cân bằng pH và nuôi dưỡng hệ sinh thái đất. Khi đó, nông nghiệp mới có thể chuyển hướng sang hữu cơ, giảm phát thải, đồng thời tận dụng được phế phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.


Trước thực trạng đất lúa suy thoái, hữu cơ giảm sút, cấu trúc đất yếu và hệ vi sinh vật nghèo nàn, đi kèm với những thói quen canh tác chưa bền vững và cơ sở hạ tầng, công nghệ phục hồi còn hạn chế, các chuyên gia và cơ quan quản lý đều nhấn mạnh việc phục hồi sức khỏe đất không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn là vấn đề chiến lược lâu dài.
Từ nhận thức này, nhiều giải pháp đồng bộ đã được đề xuất và triển khai, hướng tới phục hồi độ phì nhiêu, cân bằng dinh dưỡng, tái tạo hệ sinh thái đất và nâng cao năng lực quản lý của nông dân. Những sáng kiến này không chỉ tập trung vào cải tạo từng loại đất cụ thể mà còn nhắm tới phát triển cơ sở dữ liệu, mạng lưới quan trắc, ứng dụng công nghệ số, vi sinh vật và cơ giới hóa nhằm xây dựng ngành lúa gạo xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) Trần Minh Tiến, việc cải thiện sức khỏe đất lúa cần giải pháp đồng bộ, phù hợp với từng loại đất. Với đất mặn, cần quản lý nước hợp lý, bón phân cân đối, tận dụng rơm rạ, sử dụng giống chịu mặn và luân canh cây trồng.
Đối với đất phèn cần bổ sung vôi, kết hợp quản lý nước và bón hợp lý giữa phân hữu cơ và vô cơ. Đất phù sa và đất xám bạc màu cần được cải tạo bằng quản lý nước, cân đối dinh dưỡng, tái sử dụng rơm rạ và áp dụng luân canh. Việc quản lý chất lượng đất và hướng dẫn sử dụng phân bón trực tuyến cũng cần được triển khai mạnh mẽ.


“Về lâu dài, chúng ta cần xây dựng cơ sở dữ liệu về chất lượng đất, phát triển thang đánh giá sức khỏe đất lúa, thiết lập mạng lưới quan trắc diễn biến chất lượng đất. Cùng với đó, nghiên cứu ảnh hưởng của các nguyên tố trung và vi lượng, hạn chế tác động của các nguyên tố độc hại, đồng thời phát triển bộ chẩn đoán tính chất đất ngoài đồng ruộng”, ông Trần Minh Tiến nhấn mạnh và cho biết thêm, VAAS đang hướng tới thiết lập hệ thống “bác sĩ đất”, hỗ trợ nông dân quản lý và cải tạo đất, bảo đảm sản xuất lúa bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và áp lực thâm canh.
Tại các vùng sản xuất trọng điểm giữ vai trò then chốt trong ngành hàng lúa gạo của Việt Nam như Đồng bằng sông Hồng hay Đồng bằng sông Cửu Long, sức khỏe đất không chỉ quyết định năng suất và chất lượng lúa mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực quốc gia. Việc bảo vệ, phục hồi và nâng cao độ phì nhiêu của đất tại các vùng trọng điểm vì thế là ưu tiên hàng đầu, vừa đảm bảo hiệu quả sản xuất lâu dài, vừa tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập thị trường quốc tế.
Ông Võ Quang Minh (Hội Khoa học đất Việt Nam) cho rằng, để quản lý khai thác tài nguyên đất lúa bền vững, cần sự đồng bộ về các giải pháp kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Cụ thể tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, chiến lược nên dựa trên tái cơ cấu ngành lúa gạo, giảm diện tích lúa độc canh, phát triển mô hình xen canh, đa canh, tăng cường sản xuất lúa chất lượng cao và ứng dụng nông nghiệp thông minh. Liên kết chuỗi giá trị và thị trường được xem là then chốt, cùng với quản lý nước hiệu quả và đa dạng sinh kế nông dân thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đào tạo kỹ năng sản xuất.

Ông Minh đề xuất một kế hoạch 5 bước để quản lý và khai thác đất lúa bền vững. Đó là xác định sứ mệnh sử dụng đất, phân tích SWOT, đặt mục tiêu, xây dựng chiến lược liên quan, theo dõi và đánh giá thực hiện. Khi xây dựng chiến lược hiệu quả, các cơ quan quản lý có thể tận dụng cơ hội, phát huy điểm mạnh và hạn chế điểm yếu, nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên đất.
Về ứng dụng công nghệ, Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền, Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã phối hợp phát triển hệ vi sinh vật, áp dụng công nghệ thúc đẩy phân hủy rơm rạ ngay trên đồng ruộng. Chuyên gia Nguyễn Văn Hùng (IRRI) cho biết, nghiên cứu tập trung vào các chủng vi sinh phân hủy rơm rạ, kết hợp cơ giới hóa, sinh học và quản lý nước, xây dựng quy trình thực hành xử lý rơm rạ tại Đồng bằng sông Cửu Long.
“Cách kết hợp cơ giới hóa với công nghệ vi sinh giúp phân hủy rơm rạ nhanh, gieo sạ hàng kết hợp vùi phân, bón phân đúng theo nguyên tắc RCM và áp dụng chiến lược dựa trên dữ liệu, học máy (ML) sẽ giúp sản xuất lúa năng suất cao, phát thải thấp”, ông Hùng nhấn mạnh, đồng thời đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ quản lý tài nguyên đất, dinh dưỡng, nước và biến đổi khí hậu theo từng tiểu vùng sinh thái, với sự tham gia của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các viện, trường và doanh nghiệp tư nhân.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), sức khỏe đất là yếu tố cốt lõi, quyết định sự phát triển bền vững của ngành trồng trọt. Bà Hương cho rằng cần chuyển đổi nhận thức và truyền thông, giúp nông dân, doanh nghiệp và cán bộ quản lý hiểu đất là tài nguyên quý giá, không thể thay thế.


“Hiện nay, một bộ phận cán bộ và người dân vẫn chưa đánh giá đúng giá trị đất, dẫn đến tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật và làm đất chai cứng, nghèo hữu cơ. Cách truyền thông hiện nay còn nặng về lý thuyết, thiếu gần gũi với nông dân. Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật sẽ xây dựng bộ tài liệu chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng, giúp theo dõi, chăm sóc và cải thiện sức khỏe đất”, bà Nguyễn Thị Thu Hương thông tin.
Theo ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, sức khỏe đất là nền tảng cho mọi vụ lúa. Đất giàu dinh dưỡng, cân bằng hóa lý tính và có hệ vi sinh vật phong phú sẽ nuôi dưỡng cây lúa khỏe mạnh, giúp nâng cao năng suất và chất lượng hạt gạo. Khi đất khỏe, nông dân cũng dễ dàng áp dụng canh tác bền vững, giảm phụ thuộc vào phân hóa học, góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, an toàn và ổn định, lâu dài.
“Kết quả thống kê từ các viện nghiên cứu cho tín hiệu lạc quan khi sức khỏe đất trồng lúa Việt Nam nhìn chung vẫn tốt, thể hiện qua năng suất ổn định và thương hiệu gạo được khẳng định. Tuy nhiên không nên chủ quan bởi sức khỏe đất là nền tảng của sức khỏe cây trồng, đặc biệt là lúa. Hai yếu tố then chốt là quản lý dinh dưỡng và quy trình canh tác gắn với hệ thống thủy lợi. Nhiều chương trình và đề án đã nghiên cứu để hình thành quy trình chuẩn, cải thiện sức khỏe đất, góp phần bảo đảm hạt gạo không chỉ ngon mà còn xanh”, ông Lê Quốc Doanh phân tích.
Trên những cánh đồng xanh, mỗi hạt lúa nảy mầm đều kể câu chuyện về sức khỏe của đất. Khi đất còn khỏe, cây lúa xanh tươi, năng suất ổn định và nông dân an tâm gieo trồng. Ngược lại, đất chai cứng, nghèo hữu cơ sẽ kéo theo những vụ mùa khó khăn và tương lai bấp bênh.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thâm canh kéo dài và yêu cầu về nông sản sạch ngày càng cao, việc bảo vệ, phục hồi và nâng cao sức khỏe đất trồng lúa không còn là lựa chọn mà là nhu cầu cấp thiết. Chỉ khi đất được nuôi dưỡng đúng cách, ngành lúa gạo Việt Nam mới phát triển bền vững, nông dân mới vững vàng trên ruộng đồng và nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường mới trở thành hiện thực.

Tin liên quan
Hải Phòng sẽ 'tổng kiểm tra sức khỏe đất' từ 2026
HẢI PHÒNG Từ năm 2026, Hải Phòng sẽ triển khai chương trình 'khám sức khỏe đất' định kỳ trên toàn địa bàn.
Áp dụng IPHM, 'khám bệnh' cho đất trồng hành
HẢI PHÒNG 'Trước khi xuống giống, chúng tôi phải 'khám bệnh' cho đất để đưa ra công thức phân bón hữu cơ phù hợp, cân bằng dinh dưỡng'.
Supe Lâm Thao giúp phục hồi sức khỏe đất
Theo PGS.TS Vũ Năng Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam, có tới 33% đất nông nghiệp ở nước ta đang bị thoái hóa ở các mức độ khác nhau.
Tư duy mới tại 'thủ phủ' hành miền Bắc
HẢI PHÒNG Xã Nam An Phụ phối hợp với doanh nghiệp triển khai mô hình canh tác hành theo hướng hữu cơ, áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM).






