Sau hơn 6 năm triển khai chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), Việt Nam có hơn 14.600 sản phẩm đạt chuẩn 3 sao trở lên. Đây là kết quả cho thấy nỗ lực của các địa phương trong việc khai thác tiềm năng sản phẩm bản địa, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản. Dù được ưa chuộng tại thị trường nội địa, nhưng nhiều sản phẩm OCOP vẫn loay hoay trong việc tìm đường tiếp cận người tiêu dùng quốc tế.

Mật ong Xuân Nguyên - sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 4 sao vẫn gặp nhiều rào cản tại thị trường quốc tế. Ảnh: Mai Ca.
Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ - Tổng giám đốc công ty CP Tập đoàn Xuân Nguyên cho biết, hiện đơn vị có 6 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 4 sao và được nhiều người tiêu dùng trong nước quan tâm. Tuy nhiên, việc xuất khẩu vẫn đầy rào cản do sản phẩm thiếu dấu hiệu nhận diện và chiến lược truyền thông chuyên nghiệp.
Đơn cử như tại Mỹ, mật ong Việt Nam chỉ bán được 3-5 USD/kg, trong khi mật ong Úc hay Mỹ được tiêu thụ với giá từ 80-100 USD/kg. “Không phải chất lượng mật ong Việt kém, mà vì sản phẩm không có thương hiệu, bao bì không bắt mắt, không giữ được màu sắc ổn định. Người tiêu dùng quốc tế không có lý do gì để trả giá cao cho một sản phẩm họ không biết đến,” ông Vũ chia sẻ.
Thực tế này cũng là bài toán nan giải với nhiều doanh nghiệp OCOP khác. Bà Nguyễn Ngọc Hương - Phó giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thiên Nhiên Việt cho biết, các sản phẩm bột rau má, bột diếp cá, bột chùm ngây của công ty dù đạt chứng nhận OCOP, vẫn gặp khó trong việc duy trì sản lượng và mở rộng đầu ra. “Năm 2024, trung bình mỗi tháng công ty đưa ra thị trường hơn 200.000 sản phẩm. Nhưng đầu năm 2025, việc tiêu thụ cả ở trong nước lẫn xuất khẩu đều chững lại. Sản phẩm OCOP muốn được lựa chọn ở nước ngoài phải vừa mới lạ, vừa mang đặc trưng địa phương và hình thức phải đẹp. Để đáp ứng được những yêu cầu này, doanh nghiệp buộc phải đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại, thiết kế bao bì, hệ thống kiểm soát chất lượng – mà tất cả đều đòi hỏi vốn lớn,” bà Hương nói.
Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ, vốn chiếm tỷ lệ lớn trong số đơn vị có sản phẩm OCOP lại gặp khó về nguồn lực. Ông Nguyễn Ngọc Sơn - Giám đốc Kinh doanh Công ty TNHH Tân Nhiên, tỉnh Tây Ninh chia sẻ, sản phẩm bánh tráng của công ty đã xuất khẩu sang hơn 8 quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Úc, Canada… và nhận được phản hồi tích cực. Tuy nhiên, việc ký được các hợp đồng dài hạn vẫn rất khó khăn. “Từ lúc khách hàng quốc tế trải nghiệm sản phẩm đến khi ký kết hợp đồng tiêu thụ lâu dài là cả một quá trình đòi hỏi niềm tin, sự kiên trì và năng lực đầu tư. Công ty nhỏ không đủ kinh phí để tham gia các hội chợ quốc tế, càng không đủ để triển khai chiến dịch truyền thông dài hơi,” ông Sơn cho biết.
Theo ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, vấn đề nằm ở chỗ chứng nhận OCOP chỉ có giá trị trong nước. Nếu muốn xuất khẩu, sản phẩm bắt buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nhập khẩu như GlobalGAP, USDA Organic, chứng nhận an toàn thực phẩm… Chưa kể, mỗi thị trường có thói quen tiêu dùng riêng biệt. “Người châu Âu thích trái thanh long nhẹ khoảng 300g, loại 500g dù ngon đến mấy cũng khó bán. Sầu riêng Việt được Trung Quốc ưa chuộng là vì hợp khẩu vị chứ không phải nhờ có chứng nhận OCOP,” ông dẫn chứng.
Ông Nguyên cho rằng, chứng nhận OCOP là nền tảng ban đầu để tạo niềm tin trong nước, nhưng nếu muốn cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, doanh nghiệp phải thật sự chuyên nghiệp: đầu tư thiết kế bao bì, nâng tầm cảm quan sản phẩm, chuẩn hóa quy trình sản xuất, đồng thời xây dựng thương hiệu bài bản. “OCOP không phải là tấm vé thông hành. Muốn đi xa, doanh nghiệp phải hiểu rõ thị trường mình hướng đến và chủ động thích nghi,” ông nhấn mạnh.