| Hotline: 0983.970.780

Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục là ‘bệ đỡ’ đưa Sơn La cất cánh

Thứ Ba 30/09/2025 , 15:46 (GMT+7)

Nhiệm kỳ 2025-2030, Sơn La xác định nông nghiệp và môi trường tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng, 'bệ đỡ' cho sự phát triển bền vững và toàn diện.

Bên lề Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025-2030, Phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi nhanh với các đại biểu để lắng nghe những chia sẻ, định hướng cho chặng đường phát triển nông nghiệp, môi trường trong giai đoạn mới.

Khẳng định vị thế trung tâm nông nghiệp hàng hóa lớn vùng Tây Bắc

Trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, ngành Nông nghiệp và Môi trường Sơn La đã có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng bình quân toàn ngành đạt 3,44%/năm, giá trị thu nhập trên 1ha đất trồng trọt giai đoạn 2020-2025 tăng bình quân 10,05%/năm, đạt khoảng 73 triệu đồng/ha, hoàn thành mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra.

 

Theo ông Phùng Kim Sơn, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, tỷ trọng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp sạch hiện chiếm khoảng 10% giá trị sản xuất toàn ngành. Tỉnh đã tập trung xây dựng, phê duyệt nhiệm vụ lập Đề án Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Tân Yên, dự kiến quý IV năm 2025 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Đặc biệt, nhận thức của người nông dân đã thay đổi căn bản từ manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết sang sản xuất hàng hóa, theo yêu cầu thị trường, tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Mối liên kết “4 nhà”: Nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nông ngày càng được đẩy mạnh, bền chặt.

Bước vào nhiệm kỳ mới, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững. Trọng tâm là thúc đẩy nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, sinh thái, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp số. Kiên trì chuyển đổi tư duy sản xuất sang hướng chuyên nghiệp, khoa học, thị trường, hỗ trợ nông dân từ kỹ thuật, vốn, thông tin đến tiêu thụ sản phẩm, để liên kết trong nông nghiệp thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. 

Đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ tiếp tục được xác định là một trong những giải pháp then chốt, giúp nông dân chủ động sản xuất, giảm sự lệ thuộc thời tiết. Chú trọng quy hoạch vùng sản xuất theo lợi thế, những vùng chưa hiệu quả sẽ được chuyển đổi sang cây trồng phù hợp, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con nông dân.

Biến "đất khó" thành cơ hội, khai thác lợi thế vùng lòng hồ

Chiềng Sại có diện tích hơn 124 km2, dân số hơn 6.500 người, được sáp nhập từ 2 xã Chiềng Sại và Phiêng Côn (huyện Bắc Yên cũ), là những xã vùng III đặc biệt khó khăn, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mường, Dao, Mông sinh sống.

 

Theo ông Nguyễn Phong Lưu, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã, Chiềng Sại có điều kiện địa hình lòng chảo, chia cắt, khí hậu khô nóng. Biến khó khăn thành lợi thế, xã đẩy mạnh giảm diện tích ngô sắn sang trồng mía; đất bạc màu sang trồng cây lấy gỗ, canh tác các loại cây ăn quả nhiệt đới, cây lương thực chịu hạn; phát triển kinh tế lâm nghiệp tại các bản vùng thấp, vùng lòng hồ sông Đà. Sản phẩm Cá nến Sông Đà đã được công nhận OCOP, gắn với du lịch và bảo tồn văn hóa dân tộc.

Giai đoạn mới, Chiềng Sại tiếp tục tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, hình thành các vùng hàng hóa tập trung, thí điểm mô hình trồng cây cà phê, dược liệu. Duy trì 1 sản phẩm OCOP và phát triển thêm 2-3 sản phẩm mới, khai thác hiệu quả tiềm năng thủy sản gắn với bảo vệ môi trường.

Mục tiêu đến năm 2030, tổng diện tích các loại cây trồng chủ yếu đạt trên 2.800 ha; 35 hộ gia đình có mô hình kinh tế gia trại; 75% hộ gia đình có 1 vườn cây ăn quả, rau xanh, 2 đàn gia súc, gia cầm; thu nhập bình quân đầu người tăng 15%; tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 10%.

Nông nghiệp bền vững gắn với du lịch nông nghiệp

Bình Thuận được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 xã Chiềng Pha và Phổng Lái (huyện Thuận Châu cũ), với diện tích hơn 121 km2, dân số khoảng 17.000 người. Tên gọi Bình Thuận thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó sâu sắc của người dân bản địa với người dân tỉnh Thái Bình lên khai hoang từ những năm 1960. Đồng thời, thể hiện khát vọng đổi mới, xây dựng nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh, nông dân hạnh phúc, phát triển bền vững.

 

Theo ông Dương Gia Định, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, nông nghiệp vẫn là trụ cột với hai cây chủ lực cà phê và chè. Đến nay, nhiều sản phẩm chè chất lượng cao được chứng nhận OCOP 4 sao của Công ty TNHH Trà Thu Đan, HTX Bình Thuận. Ngoài ra, xã cũng phát triển mô hình cây bơ, mắc ca xen cà phê, chè (8,5 ha), trồng cam gắn với tưới ẩm theo công nghệ Israel (2 ha)…

Nằm dưới chân đèo Pha Đin, Bình Thuận được hưởng lợi từ hồ thủy lợi Lái Bay, cung cấp nước cho hơn 700 ha đất canh tác. Ngoài hỗ trợ của Nhà nước, người dân đã chủ động đầu tư hệ thống tưới ẩm, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ xã xác định phát triển nông nghiệp bền vững gắn với du lịch nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp phối hợp cùng người dân phát triển homestay, dịch vụ trải nghiệm, ẩm thực, góp phần tạo thêm việc làm tại chỗ. Mục tiêu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng đạt 7-8%/năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 7,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 8%; xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giữ vững và nâng cao chất lượng 5 sản phẩm OCOP 4 sao hiện có.

Lấy nông nghiệp công nghệ cao làm nền tảng phát triển

Nậm Lầu được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 xã Chiềng Bôm, Púng Tra và Nậm Lầu (huyện Thuận Châu cũ). Tổng diện tích của xã hơn 247 km2, gần 18.000 nhân khẩu, trong đó có 793 hộ nghèo, 605 hộ cận nghèo.

 

Ông Cầm Bun Lộc, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Nậm Lầu khẳng định: Khắc phục những khó khăn, nhiệm kỳ qua, Nậm Lầu đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với diện tích đất sản xuất kém hiệu quả; phát triển các loại cây ăn quả, rau màu có lợi thế; tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, chăn nuôi hữu cơ, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng gắn với thực hiện chủ trương của tỉnh về phát triển đàn gia súc.

Bước vào nhiệm kỳ mới, Đảng bộ xã xác định 3 khâu đột phá, trong đó, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiếp tục là nền tảng của sự phát triển. Trọng tâm là nghiên cứu, chuyển đổi, cải tạo các loại giống, cây trồng có giá trị kinh tế cao, theo hướng phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, thu hút các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp, xây dựng chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm.

Phấn đấu đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn xã tăng 20%; mỗi năm giảm 4,5-5% hộ nghèo; diện tích cà phê đạt trên 1.950 ha, sản lượng 17.500 tấn/năm; duy trì độ che phủ rừng ổn định trên 50% cùng với việc quản lý, bảo vệ, thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Thay đổi tập quán canh tác để thoát xã đặc biệt khó khăn

Kim Bon là xã vùng III, vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, có diện tích hơn 104 km2, dân số gần 10.000 người, trên cơ sở sáp nhập 2 xã Kim Bon, Đá Đỏ (huyện Phù Yên cũ). Cơ cấu dân cư đa dạng, trong đó dân tộc Mường, H’Mông chiếm tỷ lệ chủ yếu.

 

Theo ông Ngô Đức Dương, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, nhiệm kỳ qua, Kim Bon đã đẩy mạnh rà soát, giảm diện tích cây lương thực kém hiệu quả để phát triển cây lâu năm, hoa màu có giá trị kinh tế cao. Bước đầu, đã hình thành mô hình kinh tế mới như trồng mắc ca tại HTX Anh Xen, từng bước thay đổi tập quán canh tác, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế.

Bên cạnh đó, các chương trình, dự án giảm nghèo bền vững được triển khai đầy đủ, kịp thời đến người dân, như: Hỗ trợ cây, con giống, vốn vay ưu đãi... góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm.

Bước sang giai đoạn 2025-2030, Kim Bon phấn đấu thoát khỏi diện xã đặc biệt khó khăn, thu nhập bình quân đầu người tăng 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 20%. Đảng bộ, chính quyền xã xác định 2 khâu đột phá: Xây dựng ít nhất một sản phẩm OCOP từ sản phẩm đặc trưng; thành lập 1-2 tổ sản xuất gắn với các mô hình kinh tế phù hợp.

Trọng tâm phát triển là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hướng tới nông nghiệp hữu cơ, sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai, mở rộng diện tích trồng cây lâu năm trên đất dốc kém hiệu quả, phát triển nuôi cá lồng, chú trọng thu hút nguồn lực đầu tư để xây dựng, nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả.

Xem thêm