“Tất cả những bài học lịch sử cho thấy, chỉ khi nào quan tâm đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì đất nước mới phát triển bền vững”, nhà sử học Dương Trung Quốc chia sẻ.
Trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường nhân dịp Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường (1945 - 2025), nhà sử học Dương Trung Quốc ngẫm ngợi: Nhìn lại lịch sử và những giá trị truyền thống suốt 80 năm qua cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ nhiều hơn, dài hơi hơn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn - lĩnh vực luôn được xem là nền tảng, trụ cột và lợi thế của quốc gia, là cái nôi gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
“Có những bài học thành công, có những bài học về thất bại, nhưng tất cả những bài học lịch sử của dân tộc đều thể hiện rõ ràng rằng, chỉ khi nào chúng ta dành sự quan tâm đặc biệt đến “tam nông” thì lúc đó đất nước mới có thể phát triển bền vững”, nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định.


Nghĩ về 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, đồng thời là 80 năm hành trình “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của đất nước, nhà sử học Dương Trung Quốc kiến giải: Ngay khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến và sự đô hộ của phát xít, thực dân, đất nước Việt Nam đứng trước bước ngoặt lịch sử.
Vấn đề đặt ra cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm gì để “nước độc lập, dân hưởng tự do, hạnh phúc”, để quốc danh và tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” không chỉ là những mỹ từ mà phải trở thành động lực phát triển xã hội, đất nước.
Và bài học đầu tiên là “dĩ nông vi bản”, mượn từ câu nói của vua Lê Đại Hành trong dịp đến núi Đọi Sơn cày ruộng vào Tết Nguyên đán năm Đinh Hợi (987), mang ý nghĩa sâu sắc về việc lấy nông nghiệp làm gốc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Ngay sau khi giành độc lập dân tộc, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam chưa bàn đến những vấn đề lớn lao nào khác ngoài nông nghiệp.
Bộ Canh nông ra đời chỉ sau hai tháng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập chính là thể hiện rõ tư tưởng đó. Nếu chúng ta đọc lại Sắc lệnh số 69 ngày 1/12/1945 có thể thấy, Bộ Canh nông gồm các cơ quan: canh nông, thú y, mục súc, ngư nghiệp, lâm chính và nông nghiệp tín dụng.... Vừa là một cơ cấu rất hiện đại, lại vừa là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng phát triển đất nước lâu dài. Nói cách khác, Bộ Canh nông ra đời vào thời điểm đó không chỉ là giải pháp tình thế mà thực sự là Người đã tính một đường hướng lâu dài cho cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Cũng trong khoảng thời gian đó, trong bức thư gửi Tổng thống Mỹ cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn gửi 50 thanh niên Việt Nam ưu tú nhất sang Hòa Kỳ để học hỏi công nghệ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Hay trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Nông dân muốn thịnh thì phải có hợp tác xã… Hỡi đồng bào, anh em ta ai chẳng mong được đầy đủ, giàu có, ai chẳng mong ước cho nước thịnh dân cường. Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn góp sức, lập nên hợp tác xã nông nghiệp ở khắp nơi, từ làng mạc cho đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có hợp tác xã”.

Nghĩa là từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào người nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn… Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.
Hoặc: “Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng”. Đó vừa là tư tưởng, lại vừa là quyết sách mang tầm nhìn dài hạn mà cho đến nay nhiều bài học vẫn còn nguyên giá trị.
Từ bài học “dĩ nông vi bản” đến bài học “dĩ thực vi tiên”, dường như những thực tiễn trong quá trình đi tìm đường cứu nước ở nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn được chiến lược đúng đắn để chèo lái đất nước giai đoạn sau độc lập. Rằng đất nước muốn phát triển bền vững phải bắt đầu từ nông nghiệp, muốn tạo nên những thành tựu phải đặt người nông dân ở vị trí trung tâm.
“Dĩ nông vi bản” là gốc, “dĩ thực vi tiên” là thực tế. Muốn làm việc lớn, trước hết cái bụng phải no. Nạn đói năm 1945 với hơn 2 triệu đồng bào chết đói là nỗi đau lịch sử. Chính vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ và quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nhiệm vụ “chống giặc đói” với giải pháp lâu dài là tăng gia sản xuất, phát triển nông nghiệp, là đắp đê phòng chống lũ lụt, mở rộng diện tích đất canh tác rồi sau đó mới bàn đến giặc dốt, giặc ngoại xâm và các đường lối phát triển khác.

“Tôi gọi đấy là những bài học nông nghiệp, nông dân, nông thôn ngay từ những ngày đầu dựng nước”, nhà sử học Dương Trung Quốc phân tích. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng: nông dân chính là lực lượng đông đảo nhất, đóng góp lớn nhất, hy sinh nhiều nhất cho sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước. Quan tâm đến nông nghiệp đất nước sẽ thịnh và quan tâm đến nông dân đất nước sẽ phát triển bền vững.
Thấm nhuần bài học sâu sắc ấy, ngay sau khi giành được độc lập, vấn đề ruộng đất được quan tâm thực hiện ngay bằng Thông tư ngày 13/11/1945 nhằm giảm 25% địa tô với tá điền và những người cấy rẽ, cấy thuê. Khác với trước cách mạng, người nông dân chiếm hơn 90% dân số chỉ có 30% ruộng đất, Thông tư tháng 11/1945 đã bước đầu giảm bớt sự đói nghèo cho những người nông dân không có ruộng. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rằng, đó là cách mang lại sự công bình, lợi cho cả điền chủ và nông dân. Đồng thời, bằng nhiều chính sách khích lệ giới điền chủ đóng góp nhiều hơn cho phúc lợi xã hội và giảm nhẹ những đóng góp của người nông dân…
Cơm ăn, áo mặc và nhà ở của người nông dân xuyên suốt trong tư tưởng và những trăn trở của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Dân sinh là cái gì? Là cái ăn, cái mặc, cái ở. Ba cái đó đều quan trọng. Ăn, mình tăng gia sản xuất được. Mặc, mình tăng gia sản xuất được. Chứ còn nhà ở thì sao? Muốn làm nhà ở phải có cái gì? Gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây”.
Bài học tiếp theo là vấn đề mà ngày nay chúng ta gọi là công tác cán bộ. Một đội ngũ trí thức gắn liền với người nông dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn đã ra sức gánh vác sự nghiệp nông nghiệp của đất nước những ngày đầu như: Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận, Tổng giám đốc Nha Nông chính Hoàng Văn Đức, Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam Nguyễn Xiển… Họ lần lượt đã trở thành những tượng đài trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường.
Đặc biệt, kỹ sư Nguyễn Xiển với sáng kiến lập “quỹ thóc chữa đê” đã đưa ra quan điểm đắp đê chống lụt không chỉ là việc của Nhà nước mà trước hết của những người có ruộng đất. Do vậy, nguồn lực phải do đóng góp của các chủ đất nộp theo giá trị đất đai, người nông dân nghèo không có đất thì đóng góp công sức như truyền thống là nghĩa vụ công ích. Chủ trương đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất khích lệ, mặc dù sử dụng “thầu khoán” có yếu tố bóc lột nhưng thầu làm đê điều lại là yêu nước. Nhờ đó, việc đắp đê chống lụt ở Bắc Bộ đã nhanh chóng được khắc phục và bằng khen đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được dành cho thành tựu này.
Đó chỉ là một vài lát cắt nhỏ trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công và Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, những bài học đầu tiên của công cuộc dựng nước trên lĩnh vực nông nghiệp cùng những thay đổi thân phận người nông đã dân để lại những giá trị thể hiện sức sống và sáng tạo của một cuộc cách mạng xã hội to lớn dưới sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống ngành Nông nghiệp và Môi trường, hôm nay chúng ta cần nhìn lại để nhận thức sâu sắc rằng: Có những tư tưởng như “dĩ nông vi bản”, “dĩ thực vi tiên”, cùng với nhiều quan điểm, lời căn dặn khác của Bác đã trở thành kim chỉ nam xuyên suốt để đất nước phát triển. Có những vấn đề của thời đại Hồ Chí Minh đã biến thành sức mạnh để ngành Nông nghiệp và Môi trường làm nên nhiều thành tựu vĩ đại.
Có những bài học thành công và những bài học thất bại, nhưng giá trị cốt lõi của phát triển bền vững đất nước dựa vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã ló rạng ngay trên chặng đầu tiên của nền độc lập dân tộc luôn hướng tới mục tiêu mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho người dân Việt Nam.




“Nhìn lại những bài học cũ có thể thấy có những bài học còn nguyên giá trị đến hôm nay”, ông Dương Trung Quốc nghĩ ngợi.
Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, chúng ta đã thấy rằng, nông dân là lực lượng đóng góp cho đất nước nhiều nhất, hi sinh nhiều nhất. Bài học “ngụ binh ư nông”, hôm nay người nông dân còn cầm cuốc, cầm cày, ngày mai đã vào chiến trường cầm súng, trở thành quân chủ lực. Nông thôn là hậu phương đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến, dang rộng vòng tay đón đồng bào về tản cư, che chở, nuôi nấng cách mạng…
Thời kỳ đổi mới đất nước cũng bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bắt đầu từ Chỉ thị 100, Khoán 10 và những bài học cho đến nay vẫn chưa bao giờ cũ. Và ở thời đại hôm nay, qua đại dịch Covid-19 vừa qua, nông thôn là nhà để trở về, để cưu mang hàng triệu con người đi qua giai đoạn gian khó. Nông nghiệp vẫn là lợi thế của đất nước, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho hàng trăm triệu dân mà còn góp phần quan trọng vào xuất khẩu, nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước Việt Nam. Người nông dân của chúng ta vẫn là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội…


Với những thành tựu lớn lao, vừa là trụ cột, nền tảng, vừa là lợi thế như vậy, liệu rằng chúng ta đã quan tâm nông nghiệp, nông dân, nông thôn đúng mức hay chưa?
Tôi nghĩ là chưa. Nhìn vào “tam nông” hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nhiều vấn đề cần phải suy nghĩ. Nông nghiệp dù đạt nhiều thành tựu lớn nhưng vẫn còn lạc hậu. Nông thôn đang bị phá vỡ cả về không gian và chiều sâu văn hóa bên trong. Nông dân vẫn là đối tượng hy sinh nhiều nhất và chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình phát triển. Nếu chúng ta không suy nghĩ, không có sự quan tâm đúng mức, chắc chắn sẽ phải trả giá rất đắt.
Bởi, đất nước chúng ta đang phát triển đến giai đoạn công nghiệp và nông nghiệp không còn ranh giới nữa. Chúng ta đã phải định vị lại rằng, nông nghiệp không chỉ là trụ đỡ mà còn là lợi thế quốc gia. Nếu không đầu tư cho nông nghiệp xứng đáng nghĩa là chúng ta chưa biết cách để phát huy lợi thế của quốc gia, dân tộc.
Người nông dân của thời đại hôm nay cũng không còn là “ông nhà quê” mà tích hợp tất cả các giá trị tiên tiến của thời đại. Phải luôn nhớ, lực lượng nông dân là cái nôi để có thể trưởng thành bất kỳ cộng đồng nào trong dân tộc Việt Nam. Từ người lãnh đạo, người lính, nhà khoa học, kỹ sư… Nông dân đẻ ra trí thức, là gốc của mọi thành phần trong xã hội. Nếu phần gốc đó không được quan tâm thì phần ngọn cũng sẽ dễ bị thui chột.
Đặc biệt với nông thôn, cái nôi văn hóa của dân tộc. Có bao giờ chúng ta tự hỏi vì sao 1.000 năm Bắc thuộc, 100 năm đô hộ mà dân tộc Việt Nam vẫn gìn giữ được nền tự chủ quốc gia? Xin thưa, chính là nhờ giữ gìn được tế bào làng xã. Đó là một bài học khôn ngoan từ cha ông mà chúng ta phải suy nghĩ. Thượng tầng có thể học hỏi của thiên hạ, nhưng nông thôn luôn được khoanh lại để giữ gìn bản sắc văn hóa và nhờ đó chúng ta mới giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc đến tận hôm nay.

Bài học lớn ở đây là cha ông chúng ta luôn nhìn nông thôn như một tế bào, chất chứa trong đó yếu tố di truyền của một dân tộc và có vai trò như là bệ đỡ cho quá trình phát triển. Cho dù nhìn vào nông thôn đôi lúc chúng ta nghĩ rằng vẫn còn nghèo khó và lạc hậu, rằng nông thôn “ăn theo” đất nước. Thậm chí có không ít nhà hoạch định chính sách nghĩ rằng đất nước phát triển sẽ kéo nông thôn phát triển, đời sống người vật chất, tinh thần của người nông dân sẽ nâng lên. Nhưng tôi nghĩ là không phải như vậy. Hãy tư duy ngược lại, là chính nông thôn phát triển, đất nước sẽ phát triển bền vững hơn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta coi văn hóa là nền tảng, tài nguyên, động lực phát triển thì nông thôn chính là cái nôi văn hóa dân tộc, không chỉ là yếu tố mang tính truyền thống mà còn là nền tảng phát triển của đất nước lâu dài.
Và chúng ta vẫn nợ nông thôn, nợ người nông dân ít nhất là một mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng ta chưa thực hiện được. Nhân đây tôi nhắc lại, trong Thư gửi Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam ngày 27/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “đặc biệt là vấn đề nhà ở tại thôn quê, tìm ra những kiểu nhà giản dị và cao ráo, sáng sủa và rẻ tiền”. Nhìn vào nông thôn hôm nay, rất nhiều sự lai căng, thiếu quy hoạch, vậy thì mong muốn của Bác Hồ liệu đến bao giờ mới thành hiện thực?
Bước vào kỷ nguyên mới với khát vọng giàu có và thịnh vượng, tôi nghĩ rằng tất cả những bài học về nông nghiệp, nông dân, nông thôn cần được nhìn nhận đầy đủ hơn, thấm nhuần hơn. Hãy luôn luôn coi tam nông như là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Một bức tranh lý tưởng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam vừa giữ được những giá trị bền vững vốn có, vừa trở thành động lực quan trọng của quá trình phát triển sẽ đưa đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam đến giàu có và hạnh phúc như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.






