
72 năm trước, năm 1953, 14 du học sinh xuất sắc của Việt Nam được cử sang Viện Nông học Hoa Nam (Quảng Châu - Trung Quốc) để đào tạo thành những chuyên gia nông nghiệp, đất đai, môi trường…, mục đích sau này sẽ trở thành những hạt nhân kiến tạo nền nông nghiệp đất nước, gồm có: Nguyễn Công Tạn, Đoàn Triệu Nhạn, Tôn Gia Huyên, Trần Khải, Bùi Nguyên Ích…


Đúng như kế hoạch, sau khi tốt nghiệp về nước, hầu hết các ông đều công tác trong ngành nông nghiệp, đều là những “cây đa cây đề” ở mỗi lĩnh vực khác nhau: Nguyễn Công Tạn - lĩnh vực trồng trọt, Tôn Gia Huyên - đất đai, Bùi Nguyên Ích - bảo vệ thực vật, Đoàn Triệu Nhạn - cây công nghiệp, đặc biệt là cây cà phê, ca cao trên đất Tây Nguyên… Người xuất sắc nhất trong những gương mặt tinh tú ấy là Nguyễn Công Tạn.
Sau 1 năm học ngoại ngữ (tiếng Trung), năm 1953, tại một khu rừng già của huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, 14 anh em chúng tôi làm lễ xuất phát. Điểm đến là Viện Nông học Hoa Nam (Quảng Châu, Trung Quốc). Sau 4 năm, năm 1958 chúng tôi về nước, tôi và anh Tạn cùng nhận công tác tại Vụ Trồng trọt (Bộ Nông Lâm).
Thời kỳ du học bên Trung Quốc, chứng kiến sự phát triển về khoa học công nghệ, kỹ thuật sản xuất, canh tác nông nghiệp của nước bạn, đúng là họ đi trước mình cả một chặng đường dài. Anh em chúng tôi ai cũng thán phục, kinh ngạc. Nhưng chỉ sau vài thập kỷ, với những chiến lược, cách thức sáng tạo riêng, chúng ta đã đuổi kịp, nhiều lĩnh vực thậm chí còn vượt họ. Khoảng cách về trình độ sản xuất nông nghiệp đã được thu hẹp, đó là một kỳ tích.
Với chúng tôi, anh Tạn là con người của công việc, đổi mới, sáng tạo, luôn đau đáu đưa cây - con giống mới vào sản xuất, tìm hướng mới để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thay đổi thu nhập cho người dân.
Tôi và anh Tạn học cùng lớp, ở cùng phòng trong thời gian tại Viện Nông học Hoa Nam. Quê anh ở làng quê ven biển Thái Bình (bây giờ là tỉnh Hưng Yên), trong suốt thời gian học tập, công tác anh luôn thể hiện là con người có ý chí phấn đấu cao. Anh học giỏi, học đều tất cả các môn, là sinh viên giỏi của trường. Ra trường, anh là một cán bộ mẫu mực luôn vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Ở trường Hoa Nam, ngoài học văn hóa, kiến thức cơ bản còn có các môn học thể dục, rèn luyện thân thể. Với môn nhảy cao, anh Tạn bất lợi vì người anh nhỏ bé. Để khắc phục điểm yếu này, trưa nào anh cũng xuống sân ký túc xá luyện nhảy cao trong khi các học viên khác đang nghỉ trưa. Quả thật, ý chí phấn đấu, tự giác, khắc phục khó khăn của anh Tạn như đã ăn vào trong máu, trở thành tính cách, con người của anh.
Trong công tác, anh là một cán bộ lãnh đạo quan tâm sâu sát, toàn diện đến toàn ngành nông nghiệp, từ cây lúa, cây công nghiệp đến chăn nuôi giống bò, giống lợn, giống gia cầm. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó Thủ tướng Chính phủ, anh đã cùng tập thể đưa sản lượng lúa cả nước lên cao, từ chỗ còn thiếu ăn phải nhập lương thực đến chỗ đủ ăn, trở thành nước xuất khẩu gạo. Trong chăn nuôi, anh đưa đà điểu về Việt Nam thử nghiệm đầu tiên, yêu cầu Viện Chăn nuôi có đề án nghiên cứu nuôi đà điểu. Sau này là cây mắc ca, cũng gắn với tên anh.
Có rất nhiều những cây trồng, vật nuôi gắn với Nguyễn Công Tạn: anh khởi xướng chương trình phát triển lúa lai, mía đường Việt Nam; trong chăn nuôi, đó là lợn siêu nạc, đà điểu, gà Lương Phượng, gà Tam Hoàng, gà Ai Cập, bồ câu Pháp, bò sữa; hay các lĩnh vực khác như lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi…
Mỗi lĩnh vực là một cuộc cách mạng gắn liền với trí tuệ, tâm huyết của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn. Những giống cây trồng, vật nuôi, nguồn gen quý hiếm… mà anh đưa về Việt Nam đã trở thành nguồn lực phát triển mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần rất lớn giải quyết bài toán về lương thực, thực phẩm, tạo nên thành tựu nông nghiệp ngày nay.

Tháng 4/1980, theo quyết định của Ban Cán sự về tăng cường cán bộ cho công ty cà phê ca cao, Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu điều động tôi lúc đó đang là Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng nông hóa về nhận nhiệm vụ tại công ty, tham gia chỉ đạo đi phát triển vùng trồng cây cà phê ở Tây Nguyên.
Là dân trồng trọt, có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu cây nhiệt đới từ những ngày đầu thành lập Trạm Thí nghiệm Cây nhiệt đới Tây Hiếu (năm 1960), tôi tuân thủ theo chỉ đạo, khăn gói lên đường vào Tây Nguyên. Khi ấy, công ty cà phê không có lương và kinh phí hoạt động, mọi chi phí và lương đều thuộc Ban kiến thiết công trình.
Tây Nguyên khi đó còn rất hoang sơ, bạt ngàn bom đạn sau chiến tranh cần nhiều thời gian để phục hồi, dọn dẹp, cải tạo từ đó mới có mặt bằng để trồng cà phê. Những ngày đầu đặt chân vào vùng đất này, quả thật ai cũng cảm thấy gian nan, hoang mang. Tôi chỉ đạo thực hiện ngay 2 việc: thành lập Ban trù bị xây dựng vùng cà phê Tây Nguyên trực tiếp tôi chỉ đạo và Trạm vật tư phục vụ cho sản xuất cà phê do ông Thứ làm Trạm trưởng.
Hai cơ quan này được Bộ rót kinh phí hoạt động. Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu, công ty xây dựng kế hoạch 5 năm đầu tiên của ngành cà phê Việt Nam, chỉ tiêu kế hoạch trồng mới giai đoạn 1980-1985 là 40.000 ha. Kế hoạch được đồng chí Võ Chí Công trực tiếp nghe, duyệt và sau đó báo cáo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.


Quá trình mở đất trồng cà phê ở Tây Nguyên có công rất lớn của các đơn vị quân đội như Sư đoàn 331, 333 - các sư đoàn được giao nhiệm vụ tham gia phát triển vùng trồng cây cà phê; các Sư 332 làm lâm nghiệp ở Kon Hà Nừng, Sư đoàn 334 về tham gia phát triển vùng trồng bông ở Thuận Hải (tỉnh Ninh Thuận). Quân đội ta đánh giặc giỏi mà làm kinh tế, làm nông nghiệp cũng chuyên nghiệp như những chuyên gia thực thụ.
Từ những ngày đầu sơ khai, thế mà chỉ sau vài thập kỷ sau, Việt Nam đã trở thành cường quốc cà phê lớn thứ 2 trên thế giới, cà phê trở thành ngành hàng xuất khẩu tỷ đô. Nhìn vào thành tựu to lớn đó, mấy ai nghĩ rằng ngành cà phê Việt Nam là ngành sinh sau đẻ muộn trong số hơn 50 quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê trên thế giới.
Chính ở giai đoạn chuyên tâm vào lo phát triển mở rộng sản xuất cây cà phê, tôi được gặp anh Tạn nhiều hơn, được anh thường xuyên gần gũi giúp đỡ tôi trên mọi công tác.
Anh là một lãnh đạo có tinh thần đổi mới từ sớm. Khoảng năm 1982, tôi và anh đi thăm một cơ sở sản xuất cà phê ở Đăk Lăk, trên đường đi gặp đoàn xe ô tô tải của Liên hiệp Cà phê đang chạy trên đường chở vật tư từ Nha Trang lên, anh bảo: “Anh tính toán giao khoán xe cho lái xe. Xe giao cho họ quản lý họ sẽ có trách nhiệm chăm sóc, bảo quản, giữ gìn, sẽ hiệu quả hơn”. Quả thật, điều anh nói rất có cơ sở. Sau đó, tôi giao cho anh em xây dựng phương án, triển khai thực hiện.
Đến thời kỳ đưa cây cà phê lên vùng Tây Bắc. Một sáng sớm, anh Tạn lúc này đang làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp (kế cận sau Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu) gọi điện cho tôi: “Ông Nhạn à, ông đi ngay lên Sơn La tổ chức trồng cà phê chè ở vùng này, mình vừa đi Sơn La về thấy có một vườn cà phê chè trồng từ thời Pháp đã hơn 40 năm, không được chăm sóc vẫn không bị sâu bệnh và cho sản lượng”. Thực ra tôi cũng đã có kế hoạch trồng cà phê tại Tây Bắc, nay lại được Bộ trưởng cho chủ trương như thế là rất thuận lợi.
Tổng Công ty cà phê Việt Nam được thành lập vào ngày 29/4/1995. Ngay cuối năm 1995, lãnh đạo Tổng công ty đã tổ chức Hội nghị phát triển cây cà phê chè ở tỉnh Sơn La. Hội nghị phân tích điều kiện sinh thái, khí hậu của hai loại cà phê chè và vối, chủ trương sẽ phát triển, mở rộng vùng trồng cà phê chè ở Thuận Châu, Mai Sơn (Sơn La), Mường Ảng, Tuần Giáo - các xã Mường Nhé, Mường Toong, Chung Chải (tỉnh Điện Biên). Những dấu mốc của ngành cà phê Việt Nam đều có hình ảnh của anh Tạn trong những ngày đầu: chỉ đạo, gợi mở, quan tâm thường xuyên từ đó chúng tôi có động lực làm việc.


Một lần đi công tác trên Sơn La, đến khu vực Thuận Châu thấy bà con nông dân đang cày trâu. Anh Tạn bảo lái xe dừng xe, rồi anh xuống bảo anh nông dân Thuận Châu kia đưa cày cho anh cày thử. Anh cày thật. Tôi hỏi lý do vì sao mà anh lại “thực hành” như thế, anh bảo: Tớ phải cày thử xem trâu cày ở vùng núi khác với trâu cày ở dưới xuôi như thế nào?
Câu chuyện đó cho thấy, anh là người rất thực tế, rất thích trải nghiệm và ứng dụng. Với người lao động anh cũng có tình thương yêu sâu đậm. Một lần đi thăm một nông trường cà phê ở Gia Lai, xuống một lán trại công nhân gặp một công nhân cao tuổi đang lên cơn sốt rét, anh cho đưa người công nhân lên xe ô tô của mình để đưa về bệnh xá nông trường.
Sau này dù đã nghỉ hưu, sức làm việc của anh Tạn vẫn không hề suy giảm. Cỡ năm 2013, anh Tạn và tôi vào Đăk Lăk thăm tình hình sản xuất ở Công ty Mía đường 333, nghe báo cáo về lượng bã mía lớn, anh gợi ý sử dụng bã mía sản xuất diesel sinh học. Đến lúc tối muộn, anh vẫn vào thăm một cơ sở sản xuất cây mắc ca - một giống cây mới mà anh đang ra sức phổ biến mở rộng ở nhiều vùng trên cả nước.
“Với chúng tôi, Nguyễn Công Tạn là một lãnh đạo đầy tâm huyết. Ông xứng đáng được gọi là con người của công việc, con người của nông dân”, ông Đoàn Triệu Nhạn nói về cố Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn.





