Giáo sư - Viện sĩ Đào Thế Tuấn: Một người thầy đặc biệt

“Một con hổ uyên bác” là từ của TS Pascal Bergeret của nước Pháp nói về GS Đào Thế Tuấn. Rằng khi người ta tưởng ông đang ngủ gật là lúc ông mai phục để sẵn sàng bật dậy. Luôn luôn mãnh liệt nhưng cũng rất nhẹ nhàng.

Còn với PGS.TS Lê Quốc Doanh, thầy Đào Thế Tuấn là một người đặc biệt. Không chỉ đặc biệt với cá nhân ông, với tình nghĩa thầy trò mà còn đặc biệt với cả ngành trồng trọt, nơi truyền thống và tính kế tục vốn là ngọn lửa được trao truyền để thế hệ sau luôn luôn được đứng trên vai những thế hệ đi trước.

Kể về người thầy của mình, PGS.TS Lê Quốc Doanh xúc động: Rất nhiều thế hệ trong ngành Nông nghiệp và PTNT, nhất là những người từng cộng tác trực tiếp với thầy, rồi bạn bè, các thế hệ học trò và đối tác quốc tế đều có chung đánh giá đó là một nhà khoa học nông nghiệp uyên bác.

“Năm 2021 tôi chủ biên cùng với các ông Ngô Thế Dân, Nguyễn Quang Thạch, Đặng Kim Sơn, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Hồng Sơn, Đào Thế Anh… xuất bản một cuốn sách cũng lấy tên là “Đào Thế Tuấn – Nhà khoa học nông nghiệp uyên bác”. Có bài viết về thành tựu nghiên cứu khoa học, có bài viết về cuộc đời của thầy, nhưng tựu trung lại là sự tôn kính đối với một nhân cách, một trí thức lớn mang tư duy, trí tuệ và tầm nhìn vượt xa thời đại”, ông Lê Quốc Doanh rưng rưng.

Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nhớ lại thời điểm năm 1984 vừa ra trường và được nhận về công tác tại Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. May mắn được làm việc dưới sự dìu dắt, chỉ bảo của GS Đào Thế Tuấn. Và cũng thật tình cờ, nhà ông lại ở cạnh nhà thầy trên phố Trần Duy Hưng, thành thử từ công việc lẫn cuộc sống đều có điều kiện gần gũi, gắn bó với người thầy đặc biệt.

“Nhớ về thầy dường như bất cứ ai cũng sẽ nghĩ đến ngay một nhà khoa học nông nghiệp uyên bác, nhưng với cá nhân tôi còn là nhớ về một nhân cách cũng hết sức đặc biệt”, PGS.TS Lê Quốc Doanh kể tiếp.

Thầy giản dị đến mức xuề xòa. Một giáo sư, viện sĩ, viện trưởng lẫy lừng nhưng thầy cực kỳ đời thường và dân dã. Từ vẻ bề ngoài cho đến sinh hoạt thường ngày, cái chất dân dã có thể bắt gặp ở thầy mọi lúc, mọi nơi. Nhớ năm ấy tôi được sang học tại Học viện Công nghệ Châu Á (AIT), Băng Cốc (Thái Lan), mỗi lần thầy sang công tác đều ghé thăm và ngủ lại trong căn phòng rộng chưa đến 10m2 của đám sinh viên chúng tôi. Hai thầy trò tự đi chợ, nấu ăn, uống với nhau một vài chén rượu Hoài Đức nút là chuối mà thầy mang từ Việt Nam sang. Thầy dặn dò đủ thứ, quan tâm, gần gũi học trò như những đứa con của mình.

Rồi sau này trong quá trình công tác, chúng tôi được chứng kiến đức tính giản dị ấy thêm nhiều lần. Làm Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, dù được bố trí phòng làm việc đàng hoàng nhưng rất ít khi thầy sử dụng. Mỗi lần đến Viện là những buổi thầy lên thư viện nghiên cứu tài liệu rồi tranh thủ đi các phòng thăm hỏi, động viên anh em. Với thầy, có lẽ mọi suy nghĩ, tính toán thường ngày đều phải nhường chỗ cho nghiên cứu khoa học.

Căn phòng làm việc của thầy tại nhà riêng đều sáng đèn suốt đêm, trong một không gian nơi nào cũng chỉ thấy sách. Điều mà thế hệ chúng tôi học được nhiều nhất ở thầy là tinh thần tự học. Tinh thần ấy xuất phát từ truyền thống của một gia đình trí thức nổi tiếng cả về văn hoá và lòng yêu nước. Xuất phát từ người cha, cụ Đào Duy Anh là một trong số ít nhân vật Việt Nam được bộ từ điển Larousse ghi danh với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Thân mẫu là bà Trần Như Mân, một nhà giáo và hoạt động xã hội.

Từ bé thầy đã được theo học các trường của Pháp, được tiếp thu có hệ thống nền học vấn cổ điển Tây phương từ tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Anh. Không những thế cụ thân sinh còn mời thầy về dạy thêm chữ Hán.  14 tuổi đã chủ động tham gia cách mạng. 22 tuổi thầy là một trong 50 người đầu tiên được chọn đi Liên Xô và học tại trường Đại học Nông nghiệp Tashkent. Chỉ trong 5 năm, thầy vừa hoàn thành chương trình đại học, vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ nông học và trở thành Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam được Liên Xô đào tạo.

Tinh thần học tập, nghiên cứu của thầy tôi được chứng kiến đến cuối cuộc đời. Cho đến hơi thở cuối cùng thầy trút xuống cũng trên trang sách và chiếc máy tính vẫn còn đang mở.

Có lẽ vì vậy mà trái ngược với với đời sống giản dị đến mức xuề xòa, nghiên cứu khoa học với GS Đào Thế Tuấn là một sự chỉn chu và tình yêu ăn sâu vào máu thịt. Và cũng nhờ đó mà thầy để lại cho ngành và cho đất nước nhiều công trình nghiên cứu, nhiều giá trị khoa học cực kỳ to lớn.

Với những cống hiến to lớn cho cuộc kháng chiến và cho nền khoa học nước nhà, GS.VS Đào Thế Tuấn đã được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng Nhất, Huân chương Lao động Hạng Hai. Năm 2000, thầy được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Năm 2005 được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ. Là Viện sĩ của Viện hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô và nhiều phần thưởng của Cộng hoà Pháp như: Huân chương Công trạng Nông nghiệp Hạng Nhất, Hạng Hai, Hạng Ba; Huân chương Cành cọ Hàn lâm Hạng Hai và Giải thưởng René Dumont…

Tôi nhớ mãi một kỷ niệm năm ấy còn làm Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Một chiều thầy sang nhà và bảo vợ chồng tôi đi cùng ra sân siêu thị Big C, ở đó người ta đang bày bán các bức tượng nho nhỏ, trong đó có tượng của ông Lục Vũ được người đời suy tôn là trà thánh. Thầy bảo, cậu làm ở “viện chè” nên phải có ông này. Thầy vẫn luôn như vậy, bên dưới vẻ ngoài xuề xòa là một tâm hồn lãng mạn và tinh tế. Luôn luôn yêu cái đẹp và hướng tâm hôn mình đến những giá trị đẹp đẽ nhất. Là một người lãnh đạo, một nhà trí thức lớn, nhưng ở thầy luôn cảm nhận được sự gần gũi, không phân biệt lứa tuổi, trình độ. Ai cũng có thể nhận được sự góp ý chân thành với nụ cười thường trực, một tâm hồn trẻ trung và đôi khi rất hồn nhiên.

“Nghĩ về thầy là nghĩ về một người bạn của nông dân”, PGS.TS Lê Quốc Doanh kể thêm.

Từ rất sớm thầy là người khởi xướng và chủ trì hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp Pháp trong Chương trình Hệ thống Nông nghiệp Lưu vực sông Hồng. Các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tổng kết trong cuốn “Hệ sinh thái nông nghiệp” là sách giáo khoa đầu tiên về Sinh thái học Nông nghiệp.

Điều đó cũng có nghĩa GS.VS Đào Thế Tuấn là người tiên phong ở Việt Nam quan tâm đến tiếp cận hệ thống trong khoa học nông nghiệp, từ nghiên cứu sinh lý ruộng lúa năng suất cao đến hệ thống cây trồng rồi hệ thống nông nghiệp. Để phát triển hướng nghiên cứu này, thầy đã thành lập nhóm nghiên cứu mà sau này trở thành Bộ môn Toán máy tính, đặt ở Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, chuyên nghiên cứu về các mô hình phát triển nông nghiệp trong mối quan hệ với các mô hình kinh tế chung của cả nước.

Trên cơ sở các nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của nước ngoài, thầy đặc biệt quan tâm đến việc áp dụng các đòn bẩy kinh tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, cũng như mô hình cải cách kinh tế và mô hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp của các nước.

Năm 1987, thầy viết tài liệu “Cải cách kinh tế ở Trung Quốc” được Ủy ban Khoa học Kinh tế Nhà nước xuất bản và có đóng góp tích cực trong việc ra đời Nghị quyết 10 năm 1988.

TS Đặng Kim Sơn trong một bài viết về GS Đào Thế Tuấn đã khẳng định rằng: “Từ mấy chục năm trước GS Đào Thế Tuấn đã từng phát biểu: Việt Nam phải quan tâm phát triển nông nghiệp, không làm nông nghiệp là chết, thế thôi. Và những thay đổi trên thế giới hôm nay đang chứng tỏ những suy nghĩ của thầy đã đi trước rất xa thực trạng Việt Nam thế kỷ 20, những tư tưởng mới mẻ, có ý nghĩa thực tế hướng đến sự phát triển của đất nước trong thế kỷ thứ 21”.

Trong các tư tưởng mới mẻ của thầy, rất nhiều vấn đề đã được xác lập mà ngày nay chúng ta vẫn thường nói là “đặt người nông dân ở vị trí trung tâm”. Thầy còn là người tiên phong nghiên cứu phát triển nông thôn, một người bạn của nông dân thực thụ, đặc biệt là sự đồng cảm với tầng lớp lao động nông thôn đông đảo đang chủ động lột xác đi vào xã hội tương lai.

Tình cảm ấy như lúc sinh thời có đôi lần thầy kể, thân mẫu Trần Như Mân vốn dòng dõi nhà quan nhưng khi sinh thầy đã truyền cho con mình tư tưởng tiến bộ và lòng yêu nghề canh nông. Bà dạy con cách nuôi tằm để vừa chơi vừa học, nên sau này khi thấy thầy theo học nông nghiệp bà đã rất mừng. Những câu chuyện mẹ kể về nỗi khổ cực của nông dân và những chuyến đi cùng bố, mẹ về các miền quê đã dần định hình mối quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong tâm hồn non trẻ và theo bước thầy đi suốt cuộc đời.

Năm 2004, khi đã nghỉ hưu, thầy vẫn miệt mài nghiên cứu các vấn đề kinh tế hộ nông dân, chuỗi giá trị, thể chế trong phát triển nông thôn... với mong muốn tìm ra hướng mới cho nông thôn phát triển. Thầy đề xuất thành lập và lãnh đạo Hội Khoa học Phát triển Nông thôn, các kết quả nghiên cứu sau này của thầy được xuất bản trong cuốn sách “Kinh tế hộ nông dân”.

“Người mở đường” là từ mà nhiều người như TS Trịnh Văn Tuấn, TS Vũ Trọng Bình dùng khi nói về thầy và những đóng góp với ngành, với đất nước. Nhưng có lẽ cuộc đời thầy phù hợp nhất là một người đặc biệt.

Có một câu chuyện được nghe kể, khi thầy Tuấn ra đời ngày 4/7/1931 ở Huế, cụ Phan Bội Châu vốn là chỗ tâm giao với cụ Đào Duy Anh đã có thơ gửi chúc mừng, trong đó có mấy câu: Gió đưa nam tới sen đầy hột/Trời khiến thu về quế nở hoa.

Cả cuộc đời 80 năm của thầy Đào Thế Tuấn đã dành hết trí lực ngành nông nghiệp và cho đất nước. Một trí thức tài hoa, một đảng viên yêu nước, khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu canh nông nuôi sống con người, một cán bộ lãnh đạo không màng đến quyền lợi cá nhân. Cuộc đời thầy là một tấm gương lớn, một nhà khoa học say mê với kiến thức, luôn chăm lo đào tạo cho thế hệ tương lai.

Đã gần 15 năm kể từ ngày thầy rời xa nhân thế, hôm nay lại cúi mình tưởng nhớ đến thầy - một người đặc biệt.

Hoàng Anh
Tiến Thành
Hoàng Anh - Đinh Tùng
Đinh Tùng
Xem thêm