

“Tôi biết một điều rất chắc chắn là chết không mang gì theo cả”, TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch HĐQT Mylan Group nói, rồi cười hóm hỉnh, như thể vừa nhắc lại một triết lý sống mà ông đã đúc kết suốt đời mình. Ẩn sau dáng vẻ điềm tĩnh của người đàn ông tóc bạc là hành trình dài đầy gian truân và khát vọng cháy bỏng.
Ít ai biết rằng trước khi trở thành nhà sáng chế, doanh nhân, ông từng là chàng trai rửa chén giữa mùa đông tuyết phủ xứ người. Ông nhớ lại, giọng chậm rãi: “Tôi tới Canada ngày 23/11/1979. Đến tháng 1/1980, bắt đầu làm ở một nhà hàng Việt Nam tại Montreal. Công việc đầu tiên là rửa chén. Sau đó mấy người phụ bếp nghỉ, tôi lên phụ bếp, rồi thành bếp chính”.
Một năm sau, ông chuyển sang một nhà hàng lớn hơn để có thu nhập cao hơn. Ông kể, mắt ánh lên nét tinh nghịch: “Ông chủ thấy tôi thì bảo: Thôi, làm bồi đi, đừng làm bếp nữa. Thế là tôi chuyển sang làm bồi bàn. Lúc đó, tiếng Anh chỉ biết mấy chữ hello, how are you và thank you, hết chuyện”.
Nhà hàng nơi ông làm việc nằm trên phố Prince Arthur - con phố đi bộ nổi tiếng ở Montreal, nơi những quán cà phê và nhà hàng lớn nhỏ luôn tấp nập khách. Ông chia sẻ: “Có đêm cả ngàn người xếp hàng. Tôi làm bồi rất giỏi, nhanh nhẹn, vui vẻ và khách quý lắm”.
Công việc tuy vất vả, nhưng ông xem đó là cách để học hỏi, để trưởng thành. “Nhà hàng bắt đầu đón khách lúc 17h nhưng thường 14 - 15h tôi đã có mặt để vào bếp giúp anh bếp chính chuẩn bị thức ăn. Tuần làm 7 ngày, ngày nào cũng như ngày nào. Hôm nào đói thì vô sớm để được ăn miễn phí. Ở một mình nên tự do lắm - chỉ có đi làm, ăn và ngủ”, ông nhớ lại, giọng thoáng chút bùi ngùi.


Giữa guồng quay mưu sinh, có một câu hỏi tưởng như bâng quơ đã làm đổi hướng cuộc đời. Ông kể lại, như vẫn còn thấy rõ hình ảnh ngày ấy: “Tháng 11/1982, khi đang cắt thịt bò trong bếp, có cô gái Việt Nam mới vào làm được hơn hai tháng hỏi: Ước mơ của anh là gì?”.
“Tôi dừng tay, rồi đáp: Một ngày nào đó anh sẽ về quê anh, xây dựng nhà xưởng sản xuất, tạo việc làm cho bà con để họ có cuộc sống tốt hơn”. Cả bếp lặng đi. Anh rửa chén quay lại trêu: “Thôi mày ơi, đừng nổ quá!”. Mọi người cười ồ. Cô gái ấy cũng cười, rồi hỏi tiếp: “Anh có biết anh đang làm bồi đó không?” - “Biết chứ,” ông trả lời, “nhưng em hỏi ước mơ của anh thì anh trả lời ước mơ của anh thôi”.


Câu chuyện tưởng đơn giản ấy lại trở thành bước ngoặt. Vài tháng sau, chàng bồi bàn đến nhà cô gái xin đính hôn. “Gia đình cô ấy đồng ý, nhưng với điều kiện tôi phải tốt nghiệp được đại học. Điều đó với tôi không phải rào cản mà là động lực”, ông kể, giọng ấm lại khi nhắc về người vợ hiền.
Tình yêu khiến người thanh niên 28 tuổi có thêm lý do để phấn đấu. Nhưng sâu thẳm hơn, đó là sự đánh thức một khát vọng đã ngủ quên: Được học hành, được vươn lên bằng tri thức. “Qua Canada từ 1979 đến 1983, tôi đã muốn đi học đại học từ lâu, nhưng phải đi làm, phải gửi tiền về giúp mẹ và các em, nên chưa thể”, ông chia sẻ.
Khoảnh khắc cô gái hỏi về “ước mơ” ấy, tưởng chừng vụt qua trong một buổi chiều, lại là mồi lửa khơi dậy cả một hành trình vươn mình mãnh liệt suốt bốn thập kỷ sau này.


Sau đính hôn, ông bắt đầu việc học. Ông kể: “Tôi đăng ký học tiếng Anh ESL - English as a Second Language (tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2), rồi nộp đơn vào Đại học Concordia (Montreal). Bên Canada, người trên 21 tuổi nộp đơn học đại học theo diện người lớn, không cần thi đầu vào. Nhưng vì tôi không phải dân bản xứ nên phải thi toàn diện tiếng Anh và với bài luận 500 chữ. Đề bài là: Bạn nghĩ thế nào về án treo cổ? Tôi viết bằng vốn tiếng Anh ít ỏi và may mắn đỗ”.
Khi chính thức bước chân vào giảng đường, ông bắt đầu một hành trình khổ luyện thực sự. “Học 8h45 đến 13h, chiều làm lab, tối đi phục vụ bàn từ 18h đến nửa đêm. Về đến nhà gần 2h sáng, tắm rửa rồi viết báo cáo. Tôi khác người khác ở chỗ: Không ghi chép, chỉ nghe và tập trung 1.000%. Học tới đâu nhớ tới đó”, ông nhớ lại, đôi mắt ánh lên niềm tự hào.
Vừa học, vừa làm, vừa gửi tiền về cho gia đình, ông vẫn không chùn bước: “Gia đình bên vợ thấy tôi quyết chí nên đồng ý cho cưới khi chưa tốt nghiệp”, ông kể, rồi cười hiền: “Ngày 3/11/1984, chúng tôi cưới nhau. Tháng 4/1986, tôi tốt nghiệp Cử nhân hóa học phân tích, sớm hơn người khác một năm”.


Sau đó, ông học tiếp thạc sĩ, chuyên ngành hóa xúc tác dị thể, rồi tiến sĩ ngành năng lượng và vật liệu. “Trong quá trình học thạc sĩ, tôi biến rơm rạ thành rượu, từ rượu chuyển thành ethylene, có 4 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế và một bằng sáng chế. Năm 1989, hình tôi được chiếu trên Discovery Channel khi nghiên cứu thành công kính đổi màu tiết kiệm năng lượng”, ông hồi tưởng, ánh mắt sáng lên khi nhắc về những năm tháng nghiên cứu.
Sau khi hoàn thành tiến sĩ, ông làm tại Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng - Vật liệu Canada, rồi sang IBM Almaden Research Center (Mỹ). “Tôi nghiên cứu chất dẻo dẫn điện, mực in phun, dầu dẫn điện cho ổ cứng. Mỗi ngày đều là một thí nghiệm, một khám phá”, ông nói.


Sau nhiều năm làm việc trong môi trường nghiên cứu hàng đầu thế giới, năm 1994 ông chuyển sang Kodak Polychrome Graphic ở New Jersey. “Lúc đó tôi làm bản in offset kỹ thuật số, sáng chế ra công nghệ không cần dùng phim. Trong công thức có bột màu hồng ngoại giá gần 35.000 USD/kg. Tôi nói đùa với sếp: Để tôi thử làm bột màu đó xem sao. Và tôi làm được thật”, ông kể, giọng vẫn còn hứng khởi như vừa mới hôm qua.
Sáng chế ấy giúp Kodak Polychrome Graphic bứt phá toàn cầu. “Sếp cưng lắm. Khi làm bản kẽm công nghệ số, tôi giúp họ lợi nhuận hàng nhiều triệu USD. Nhưng càng thành công, tôi càng nhớ quê”.
Tháng 4/1997, ông sang Nhật chuyển giao công nghệ cho Kodak Polychrome Graphic Japan. Từ Nhật, ông ghé Trà Vinh thăm quê, rồi bay ngược về Mỹ. Trên chuyến bay ấy, ông đưa ra quyết định: “Mình làm thuê đủ rồi. Đến lúc phải làm điều gì đó cho chính mình - và mở đường trở về quê hương”.
Cuối tháng 7/1997, ông xin nghỉ việc và bắt đầu khởi nghiệp. Ông thuê phòng thí nghiệm 100 m2 tại Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng - Vật liệu Canada, lập Công ty American Dye Source. “Tôi làm bột màu, chi phí 600 USD/kg, bán 25.000 - 30.000 USD/kg. Lô đầu tiên lãi lớn, tôi mua tặng bà xã một chiếc xe hơi”.


Sau một năm hoạt động thuận lợi, công ty phát triển nhanh đến mức ông phải chuyển ra thuê địa điểm riêng. Một năm sau, ông mua đất tại khu công nghiệp phía Tây Montreal; đến tháng 1/2001, công ty mới chính thức đi vào hoạt động. Cũng trong thời gian này, ông nghiên cứu và sáng chế ra chất dẻo hấp thu tia hồng ngoại gần thay thế bột màu hồng ngoại gần, đăng ký hai bằng sáng chế, mang về gần 300 triệu USD doanh thu bản quyền trong suốt 20 năm. Công nghệ này nhanh chóng được nhiều quốc gia như Trung Quốc, Đài Loan, Tây Ban Nha, Brazil và Hàn Quốc thuê lại để ứng dụng trong sản xuất.
Từ nhân viên phục vụ, chàng bồi bàn với vốn tiếng Anh vô cùng ít ỏi, ông trở thành nhà khoa học và doanh nhân thành đạt ở đất nước phát triển hàng đầu thế giới. Nhưng trong tim ông, khát vọng quê hương chưa bao giờ nguôi.


Năm 2003, trong tiệc sinh nhật ông, vợ hỏi: “Anh có nhớ ước mơ của anh không? Anh làm được rồi đó. Giờ anh về quê đi - về Trà Vinh - đi theo trái tim của anh”.
“Tôi nói, vậy là Bộ Nội trợ đã cấp visa rồi đó!” - ông kể, nửa đùa nửa thật, như vẫn còn thấy rõ khoảnh khắc ấy.
Năm 2004, ông về Trà Vinh xây dựng Mylan Group, vận hành từ năm 2006 - doanh nghiệp công nghệ cao đầu tiên của tỉnh. “Khi về, Trà Vinh là một trong ba tỉnh nghèo nhất cả nước. Nhân lực hạn chế, nhưng 2 - 3 năm sau, chúng tôi đã đào tạo được đội ngũ kỹ sư giỏi, làm chủ công nghệ”, ông kể.
Với ông, trở về không phải là rời bỏ đỉnh cao sự nghiệp, mà là trở lại đúng nơi mình thuộc về.
Ông nói về tuổi trẻ nhiều thiếu thốn: Học ở Đại học Bách Khoa trong cảnh gia đình nghèo, không có tiền ăn, phải làm đủ nghề - lơ xe, bán chợ trời, đá banh thuê. Trên tuyến Cảng miền Tây - Trà Vinh thời bao cấp, ông chứng kiến vô số trạm kiểm soát tịch thu nông sản; những người mẹ, người chị giấu từng ký thịt, gạo lên xe chỉ để nuôi con - như mẹ ông từng nuôi năm anh em.
“Tôi sinh ra trong một gia đình không trọn vẹn. Năm bảy tuổi, cha bỏ đi, mẹ một mình tần tảo nuôi năm đứa con. Là con cả, tôi hiểu hết nỗi nhọc nhằn ấy. Tôi từng thấy có người nghèo đến mức phải khóc lạy cán bộ xin chút nông sản mà cũng không ai cho; có người tuyệt vọng tìm đến cái chết. Những hình ảnh đó ám ảnh tôi, khiến tôi chỉ nghĩ một điều: Làm sao để bà con, làng xóm mình đỡ khổ hơn, đất nước mình phát triển hơn”, ông hồi tưởng.
“Sau này, khi ra nước ngoài học tập và làm việc, trong tim tôi vẫn luôn đau đáu - nếu có ngày thành công, tôi sẽ trở về, sẽ làm điều gì đó cho quê hương. Bởi đó là ước mơ bình dị nhất, thiêng liêng nhất của một con người”, ông xúc động nói.


Năm 2016, khi cổ đông mới vào, ông rút về nghỉ hưu. Nhưng “nghỉ hưu” của ông không phải dừng lại, mà là khởi đầu cho một hành trình mới - nông nghiệp số.
“Mỗi ngày đi ghe qua sông Cổ Chiên, tôi thấy cây nâu lá, hỏi sao không tưới nước, mấy đứa nhỏ nói: Xâm nhập mặn, không có nước. Tôi nghĩ, sao ở ngay sông mà không có nước ngọt?”.
Từ đó, ông cùng kỹ sư trẻ thiết kế phao quan trắc nước, 15 phút gửi tín hiệu lên đám mây. Khi độ mặn dưới một phần nghìn, hệ thống tự động bơm nước. Bà con chỉ cần nhìn điện thoại là biết nước ngọt, nước mặn ở đâu.
Cũng từ đó Rynan Technologies Vietnam ra đời, phát triển mạng lưới quan trắc chất lượng nước, giám sát côn trùng thông minh, mô hình nuôi tôm công nghệ cao trung hòa carbon... Riêng với mạng lưới giám sát côn trùng thông minh, ĐBSCL hiện có hơn 120 hệ thống, thêm các hệ thống ở Lâm Đồng, Phú Yên, Thanh Hóa, Nghệ An...


Năm 2022 đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong hành trình “Go Global” của sản phẩm công nghệ Việt, mạng lưới giám sát côn trùng thông minh lần đầu tiên được xuất khẩu hơn 50 trạm sang Nhật Bản - một thị trường nổi tiếng với những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, đến nay, sản phẩm đã đặt chân đến nhiều quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Brunei.
Gần đây, mô hình nuôi tôm công nghệ cao TOMGOXY® của Công ty đã được Bộ Thủy sản và Nghề cá Indonesisa lựa chọn để triển khai cho dự án nuôi tôm công nghệ cao với vốn đầu tư lên đến hàng trăm triệu đô la.
Chỉ những người thật sự thương nông dân mới nghĩ đến việc giúp họ bằng công nghệ. Ông không chỉ mang giải pháp, mà còn gieo niềm tin rằng nông dân Việt có thể làm chủ thời đại số.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” - một dấu mốc quan trọng trong hành trình đưa đất nước bước vào kỷ nguyên số.
Thế nhưng, trong khi nhiều người chọn lĩnh vực “Chính phủ số” hay “Công nghiệp số” - vốn dễ tạo tiếng vang và lợi nhuận, thì “Nông nghiệp số” lại gần như chẳng mấy ai muốn làm.
Ông nói thẳng: “Làm nông nghiệp số ở Việt Nam, chỉ những kẻ dại khờ như tôi mới làm. Vì toàn tiền túi, mà lãi thì chưa thấy đâu. Nhưng tôi vui, vì thấy nước ngọt chảy về ruộng, thấy nông dân bớt khổ”.
“Nhưng cái “dại” ấy lại mở ra con đường khác biệt. Những công nghệ mà công ty chúng tôi phát triển giờ đây đã vượt xa cả nhiều doanh nghiệp nước ngoài; thậm chí Indonesia, Thái Lan, và Philippines còn phải mua công nghệ của chúng tôi. Việt Nam không thiếu năng lực hay trí tuệ - chúng ta có công nghệ cao, có nền tảng số - chỉ tiếc là vẫn thiếu cơ chế để các sản phẩm ấy được ứng dụng rộng rãi và phát huy giá trị thực tiễn”, ông tự hào khoe.
Ông cho rằng, để chuyển đổi số nông nghiệp thực sự hiệu quả, cần có sự tham gia của 5 nhóm chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân, người tiêu dùng và giới nghiên cứu. Khi năm “mắt xích” này vận hành đồng bộ, chuyển đổi số mới trở thành động lực bền vững cho nông nghiệp Việt Nam.


Giờ đây, TS. Nguyễn Thanh Mỹ sở hữu hơn 700 bằng sáng chế tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Mỗi sáng chế là một đứa con tinh thần, kết tinh trí tuệ và lòng tử tế của ông và những kỹ sư Việt.
Năm 2020, ông trở lại làm Chủ tịch HĐQT Mylan Group. “Thành công hôm nay, một phần không nhỏ là nhờ vợ tôi - người đã đồng hành, từ ngày tôi đi học, đi làm đến khi về quê khởi nghiệp. Visa của Bộ Nội trợ là visa trọn đời”, ông hóm hỉnh nói.
Sau gần nửa thế kỷ, người đàn ông ấy vẫn nói chuyện về công nghệ, về quê hương với đôi mắt sáng rực như chàng trai thuở nào. Khi được hỏi về điều hạnh phúc nhất, ông chỉ cười và từ tốn nói:
“Tôi dám nói, tôi là người thành công nhất, hạnh phúc nhất và viên mãn nhất - vì tôi đã thực hiện được ước mơ của đời mình. Mỗi sáng thức dậy, tôi thấy vui vì vẫn được làm điều mình thích. Tôi có một tập thể nhân viên biết yêu thương, tâm huyết, và hết lòng cùng tôi làm việc để giúp quê nhà phát triển. Ý nghĩa cuộc sống là vậy đó - không phải là tiền bạc hay danh vọng, dù có trả hàng tỷ USD cũng chưa chắc mua được cảm giác ấy”.
Ông dừng lại, rồi nói tiếp, giọng đầy chân thành: “Cái tôi muốn là giúp bà con ở quê có cuộc sống tốt hơn, có môi trường làm việc xanh sạch và văn minh hơn. Đến giờ, gần như mọi ước mơ trong đời tôi đều đã thành hiện thực. Chỉ còn một điều - tôi chưa tạo được việc làm cho 1.000 người như mong ước, nhưng cũng đã được hơn 800 người rồi. Và tôi tin, rồi cũng sẽ tới thôi”.
Người đàn ông từng đi qua gần nửa vòng trái đất, làm việc tại những trung tâm công nghệ lớn nhất, cuối cùng lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời nơi mảnh đất quê nhà. Ở Trà Vinh, ông không chỉ xây dựng nhà máy hay công nghệ, mà còn gieo trồng niềm tin rằng: “Thành công thật sự là khi được sống tử tế, cống hiến và an nhiên”.
Và có lẽ, nếu hỏi về di sản lớn nhất mà TS. Nguyễn Thanh Mỹ để lại, đó không chỉ là hơn 700 bằng sáng chế, mà là tấm gương sáng của một người Việt xa xứ trở về, chọn “gieo hạt tử tế” trên chính mảnh đất mình sinh ra và lớn lên.
Nhắn nhủ đến những người trẻ đang trên hành trình khởi nghiệp, TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch HĐQT Mylan Group chậm rãi nói, giọng đầy suy tư: “Khởi nghiệp phải bắt đầu từ trái tim - từ những điều mình thật sự tin và yêu. Rồi nó sẽ lan dần lên não bộ, trở thành trí tuệ và neo đậu trong lương tâm, đạo đức của mỗi người. Nếu theo đạo Phật, đó chính là lòng từ bi, trí tuệ và giới hạnh. Có được ba điều ấy, hành trình nào cũng sẽ bền lâu”.





