Ở tuổi 88 nhưng đầu óc còn hết sức minh mẫn, tinh anh, GS.TS.NGND Tống Duy Thanh gọi GS.TS.NGND Nguyễn Văn Chiển là người thầy lớn. Rằng cuộc đời của ông kể từ khi chập chững theo nghề địa chất đã học được rất nhiều từ GS Nguyễn Văn Chiển, cả sự nghiệp lẫn cuộc sống.
Và bài học lớn nhất chính là học làm người.


GS Tống Duy Thanh kể: Tôi vốn sinh ra trong một gia đình nông thôn ở Thanh Hóa. Năm 1954 rời quê nhà ra Hà Nội học. Từ cuối năm 1956, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi được thầy Nguyễn Văn Chiển hướng dẫn, bắt đầu bén duyên với ngành địa chất mà trước đó hoàn toàn xa lạ.
Buổi gặp đầu tiên, thầy hỏi: Anh quê ở đâu?
Tôi đáp: Dạ, Thanh Hóa.
Bố mẹ làm nghề gì?
Dạ, nông dân.
Thầy cười bảo: Thế thì tốt! Con nhà nông thì chịu khổ được, theo được nghề địa chất.
Từ đó, tôi gắn bó với ngành địa chất cho đến tận bây giờ. Tổng kết lại tôi có 10 năm làm việc bên cạnh thầy ở Đại học Bách Khoa, 10 năm tiếp theo ở Đại học Tổng hợp và hàng chục năm khác ở Viện Khoa học Việt Nam, ở trong các hội đồng khoa học, nghiên cứu…
Quãng thời gian gắn bó đủ dài lâu để ít nhiều thấu hiểu, thấm nhuần nhân cách và trí tuệ của một người thầy lớn. Với tôi, thầy Chiển không chỉ là người mở đường, chỉ lối mà còn là người nâng đỡ, dìu dắt cả trong nghiên cứu khoa học lẫn trong cuộc sống.
Nhớ về thầy, trước tiên là nhớ về một nhà khoa học, nhà nghiên cứu địa chất đầu tiên của Việt Nam, người thầy đầu tiên của ngành địa chất và là chủ nhân của Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ.
Cả cuộc đời nghiên cứu, giảng dạy của thầy đã để lại cho ngành địa chất một di sản hết sức đồ sộ. Có thể kể đến một vài thành tựu nổi bật như: Từ điển địa chất; Bản đồ Địa chất Miền Bắc Việt Nam; Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước - Điều tra tổng hợp về Tây Nguyên; Chương trình Xây dựng Atlas quốc gia… Và rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học mang tính nền tảng cho ngành địa chất Việt Nam.
Nhưng có lẽ di sản lớn hơn cả mà GS Nguyễn Văn Chiển để lại cho thế hệ sau là nhân cách, đạo học của một người thầy. Thầy đặc biệt coi trọng tình cảm thầy trò.
Cuối thập kỷ 1960, Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về vùng Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên). Năm nào cũng vậy, cứ sáng sớm ngày Tết, tôi lại thấy thầy Chiển đạp xe gần cả chục cây số đi chúc Tết người thầy của mình thuở Trường Bưởi là GS Ngụy Như Kontum.
Hay câu chuyện khác là năm 1989, khi tôi đi Pháp làm cộng tác viên của Viện Cổ sinh học Paris, tôi mang thư thầy Chiển gửi GS Hoàng Xuân Hãn kèm theo mấy bài báo thầy đăng trên các tạp chí khoa học. Mở phong bì và đọc thư xong, cụ Hãn chuyển cách xưng hô thân tình: "Thanh từ bên nhà sang Paris và đến chơi, bây giờ đã giữa trưa rồi, ở lại ăn cơm với bác và kể cho bác nghe về công việc và gia cảnh hiện nay của Chiển".
Trầm ngâm một lát như để lục lại ký ức đã qua nửa thế kỷ, Cụ Hãn nói tiếp: Ngày ở trường Bưởi - Chiển học giỏi lắm, giỏi cả về Toán - Lý và Văn - Sử. Nhưng khi Chiển lên đại học, tôi bảo, giỏi Toán như tôi cũng chỉ đi dạy học thôi, học Vật lý thì lấy đâu ra phòng thí nghiệm để làm việc. Do đó nên chọn học cái gì để có thể có điều kiện phát huy khả năng và làm được nhiều điều hữu ích. Tốt nhất là học Địa chất, phòng thí nghiệm sẽ là cả đất nước bao la tha hồ mà vùng vẫy.
Thế là thầy Chiển đã chọn theo nghiệp Địa chất như ta đã biết.
Một lần khác, vào năm 1997, tôi đến thăm thầy. Cô Thứ (vợ thầy) tiếp tôi và bảo: "Chú ngồi chơi, anh Chiển đang cặm cụi viết lách ở phòng bên để kịp đám tang cụ Nguyễn Mạnh Tường (thầy dạy Văn của thầy Chiển ở Trường Bưởi). Anh ấy chưa hài lòng với điếu văn đã soạn nên đang viết lại để muốn nói hết được cống hiến của cụ và sự trân trọng về cụ".


Với học trò như tôi, thầy Chiển cũng dành nhiều tình cảm đặc biệt. Dù xuất thân nông dân nhưng cả cuộc đời tôi phải chịu vấn đề "thành phần". Hồi sinh viên, quê tôi đang tiến hành "cải cách ruộng đất" nên mình cũng trong thành phần phải kiểm điểm, bởi thế "trượt" Ban chấp hành Đoàn thanh niên của trường.
Sau này đi làm, nhờ nỗ lực học tập, nghiên cứu, tôi có nhiều cơ hội tốt đẹp nhưng cũng vì “vấn đề thành phần” mà thành ra sóng gió, dở dang. Vào những lúc như thế, chính thầy Chiển đã dạy cho tôi biết đứng dậy, biết học cách bao dung. Thầy thường bảo: "Tôi sẽ ném cậu xuống nước, cậu muốn không chết đuối thì phải tự học bơi, rồi sẽ bơi giỏi".
Những năm 1960, khi chuẩn bị thành lập Khoa Địa lý - Địa chất của Đại học Tổng hợp, thầy muốn kéo tôi theo cùng. Nhiều người bảo: Tống Duy Thanh là con nhà địa chủ, mất lập trường, người ngoài Đảng… Người ta “phê và đấu”, yêu cầu thầy phải “kiểm điểm” vì mất lập trường. Tôi bức xúc lắm, nhưng thầy cười rồi bảo: "Đừng để ý. Mình là dân khoa học, cứ tập trung nghiên cứu khoa học. Con người trong xã hội vốn đa dạng, có người thế này, kẻ thế khác, đó cũng là lẽ thường tình".
Có học trò đã làm những điều không phải đạo đối với thầy, tuy hiếm, nhưng tôi không thấy sự đáp trả nào từ phía thầy. Mà ngược lại, khi có điều kiện, thầy vẫn giúp đỡ họ thực hiện những ước mơ lành mạnh.

Cái sự bao dung và lòng vị tha hiếm có ấy, tôi nhìn thấy ở một thế hệ trí thức cách mạng mà mình có duyên may mắn được gặp gỡ, làm việc. Đó là GS Nguyễn Văn Chiển, GS Ngụy Như Kontum, GS Tạ Quang Bửu, GS Hoàng Xuân Hãn… Có những người trực tiếp được học tập, có người chỉ qua tiếp xúc nhưng trí tuệ và nhân cách của các thầy chính là ánh sáng để tôi bước theo.
Có một câu nói của GS Ngụy Như Kontum từng nói với tôi ở Thái Nguyên mà tôi mang theo đến suốt cuộc đời, mỗi lần nhớ lại rơi nước mắt. “Thanh à. Anh cũng giống như tôi thôi, nhưng chúng ta thà mặc chiếc áo chật còn hơn là ở trần”. Còn thầy Chiển, ngay từ lúc tôi bắt tay vào công tác nghiên cứu, thầy vẫn luôn dặn dò: “Sau này anh phải làm việc với phương Tây anh mới phát triển được”.
Những lời dạy tưởng như bình thường nhưng lại toát lên trí tuệ của một nhà khoa học lớn và một nhân cách hiếm có.
Ở GS Nguyễn Văn Chiển, thế hệ chúng tôi học được tinh thần tự học và luôn tôn trọng khoa học. Thầy là người truyền cảm hứng, dạy cho chúng tôi cách lắng nghe những hòn đá nói.
Sinh năm 1929 trong một gia đình nông dân tại xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh (cũ), ngay thuở học tiểu học, thầy Chiển đã là “học sinh ưu tú về mọi phương diện”, được GS Hoàng Xuân Hãn ghi nhận xét vào học bạ ở Trường Bưởi là “trí lực rất hài hòa, chăm chỉ và có phương pháp”.
Đỗ đầu trong kỳ thi tú tài toàn Đông Dương và vững vàng bước vào Trường Khoa học của Đại học Đông Dương, ông theo lời khuyên của thầy Hoàng Xuân Hãn mà chọn ngành Địa chất.
Thời đó, công việc địa chất ở Đông Dương chỉ do người Pháp đảm nhiệm, vì thế có một sinh viên Việt Nam theo học là chuyện lạ. Vững tin vào lựa chọn đó, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên theo học, nghiên cứu và cũng là người thầy đầu tiên của nhiều thế hệ nhà địa chất. Rất nhiều học trò của thầy trở thành những giáo sư đầu ngành như: GS Trần Nghi, GS Mai Trọng Nhuận…
Chỉ với một Phòng thí nghiệm thiết bị nghèo nàn, nhân lực giảng dạy chỉ gồm thầy và một vài cộng sự, việc đào tạo những kỹ sư địa chất đầu tiên là một thách thức quá lớn. Chương trình đào tạo và giáo trình đều không có, một mình thầy phải giảng dạy từ môn này sang môn khác của Địa chất học.
Một khó khăn lớn nữa là không có đủ thuật ngữ Việt để dạy và học một khoa học có quá nhiều khái niệm mới, quá nhiều tên gọi lạ. Trong bối cảnh đó, việc biên soạn Từ điển Địa chất là cấp bách và GS Nguyễn Văn Chiển đã đóng vai trò đầu tàu trong hình thành hệ thống thuật ngữ địa chất học thông dụng hiện nay.


Với tôi, phương pháp tự học của thầy Chiển được áp dụng suốt đời. Nhờ vậy mà các luận án tiến sĩ đều tự mày mò làm lấy.
Năm 1960, tôi được biệt phái sang Tổng cục Địa chất tham gia đoàn khảo sát đo vẽ bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô. Nhóm tôi đi lên Tây Bắc, nhóm anh Trần Đức Lương đi vào vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Ròng rã 3 năm trời, cứ mùa đông chúng tôi đi khắp các vùng có trầm tích Paleozoi từ Lai Châu, Sơn La đến Hòa Bình với những mặt cắt địa chất ở lưu vực sông Đà. Mùa hè lại sang Liên Xô phân tích, xử lý số liệu.
Từ công trình này, nhiều nhà địa chất trẻ Việt Nam ngày ấy đều trở thành những nhà địa chất nổi tiếng như: Bùi Phú Mỹ, Nguyễn Xuân Bao, Trần Đức Lương, Trần Văn Trị, Vũ Khúc… Còn tôi thì tranh thủ viết công trình khoa học đầu tiên về hóa thạch san hô và được một người bạn Liên Xô nhận xét có thể nâng cấp thành luận án tiến sĩ. Khi hay tin, thầy Chiển mừng lắm.
Nhưng đến lúc chuẩn bị hồ sơ đi bảo vệ lại vướng “thành phần”. Thầy Chiển biết chuyện liền chạy vạy đủ đường, may sao được GS Tạ Quang Bửu tạo điều kiện cho duyệt xuất bản năm 1967 và được in bằng tiếng Pháp. Cuốn sách dày 300 trang viết về hóa thạch san hô này được các chuyên gia có uy tín đánh giá cao. Trong vòng nửa năm từ cuối 1977 đến đầu 1978, tôi đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sĩ.
Cũng trong quãng thời gian ấy, tôi có điều kiện mở mang hợp tác quốc tế với các nước phương Tây. Lúc bấy giờ, chuyện hợp tác quốc tế còn rất xa lạ, gần như chưa có tiền lệ. Nhất lại là những vấn đề hợp tác nghiên cứu biển Đông, rất nhạy cảm. Thông qua các công trình nghiên cứu, sách báo của chúng tôi, lần lượt Châu Âu, UNESCO biết đến và mời hợp tác nghiên cứu.
Năm 1989, tôi đi sang Pháp chủ trì chương trình hợp tác khoa học với nhóm của Viện sĩ Le Pichon (Pháp) và mở đường cho đoàn khoa học Pháp - Việt thám hiểm Biển Đông bằng tàu Atalante và hội thảo khoa học quốc tế Hà Nội - Đồ Sơn về kiến tạo bán đảo Đông Dương. Tiếp đó là đề án IGCP 306 của UNESCO nghiên cứu về địa tầng cổ khu vực Đông Nam Á.
Những công trình nghiên cứu khoa học của chúng tôi giúp định tuổi các tầng đá, từ đó xác định cấu trúc địa chất, địa tầng, tiềm năng khoáng sản và nền móng xây dựng công trình lớn. Những đóng góp tuy nhỏ, nhưng có thể xem là viên gạch nền móng trong ngành địa chất học Việt Nam.
Và hơn hết, nó là kết quả của một đời tự học, tự đứng dậy giữa nhiều gian khó.


GS Phan Trường Thị từng nói: Trên mọi miền của Tổ quốc, ở đâu có nhà địa chất, họ đều là học trò của thầy Nguyễn Văn Chiển.
Ngày miền Nam sắp giải phóng, thầy Chiển được giao chủ trì Chương trình Điều tra tổng hợp về Tây Nguyên, làm nền tảng để xây dựng chiến lược phát triển cho vùng. Kết quả điều tra của thầy Chiển cùng với 26 nhà khoa học cho thấy, Tây Nguyên phải phát triển rừng và cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc. Kết quả này hơi trái với chủ trương “tự túc lương thực” lúc đó, nhưng thực tế đã chứng minh, công trình của thầy và cộng sự là cơ sở khoa học vững chắc để Tây Nguyên trở thành thủ phủ của cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc... như hiện nay.
Hay công trình Atlas quốc gia cũng là công sức của thầy Chiển và nhiều nhà khoa học thực hiện trong 7 năm liên tục. Thầy đã phát huy vốn tri thức sâu rộng cả về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đặc biệt là khả năng tập hợp chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để thực hiện một nhiệm vụ khó khăn phức tạp. Đúng như lời TS Nguyễn Thơ Các đã từng phát biểu: “Nếu không có Thầy Chiển thì Atlas quốc gia khó mà được ra đời”.
Thầy đã rời xa chúng tôi hơn 15 năm, nhưng dấu ấn của thầy vẫn in đậm trong từng lớp người làm nghề địa chất. Những phần thưởng cao quý mà Nhà nước trao tặng, từ danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất đến Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ, là sự ghi nhận xứng đáng cho một đời cống hiến.
Nhưng có lẽ, phần thưởng lớn nhất đối với thầy lại là những thế hệ học trò nối tiếp, từ các giáo sư đầu ngành đến những kỹ sư đang lặng lẽ bám núi, bám rừng, góp sức dựng xây đất nước. Trong họ, tinh thần và nhân cách của thầy vẫn sống, lặng lẽ mà bền bỉ như chính những tầng địa chất mà thầy đã dành cả đời để khám phá.





