Mới đây, HĐND TP.HCM chính thức thông qua nghị quyết áp dụng Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nỗ lực xây dựng cơ chế thống nhất cho phát triển kinh tế hợp tác sau sáp nhập. Đây là kỳ vọng về việc hình thành những chuỗi liên kết nông nghiệp bền vững, chuyên nghiệp và có sức lan tỏa mạnh hơn trong toàn vùng.
Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của chính sách này, cũng như lý do TP.HCM lựa chọn Nghị quyết 21 thay vì các cơ chế trước đây của TP.HCM cũ và Bình Dương, Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Vũ Ngọc Đăng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM.
Ông Vũ Ngọc Đăng (áo trắng), Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM kiểm tra thiết bị đóng chai trong nhà kính tiệt trùng, máy lọc nước mắm, bồn chứa trước khi trao tặng cho HTX nước mắm Hải Đăng. Ảnh: Hoàng Nhị.
Vì sao TP.HCM chọn Nghị quyết 21 sau sáp nhập?
Thưa ông, HĐND TP.HCM chính thức thông qua nghị quyết về việc áp dụng “Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” trên địa bàn TP.HCM. Điều này có ý nghĩa như thế nào với việc phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn TP.HCM?
Việc HĐND TP.HCM thông qua nghị quyết áp dụng Nghị quyết 21/2020/NQ-HĐND có ý nghĩa rất quan trọng và kịp thời trong bối cảnh Thành phố sau hợp nhất đang cần một cơ chế thống nhất để thúc đẩy kinh tế hợp tác và các chuỗi liên kết nông nghiệp. Tôi xin nhấn mạnh ba ý nghĩa lớn như sau:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và liên tục cho toàn bộ vùng hành chính mới. Sau khi sáp nhập TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương thành một đơn vị hành chính, hệ thống chính sách phải được đồng bộ để tránh gián đoạn. Nghị quyết 21 đã chứng minh hiệu quả rõ rệt tại Bà Rịa - Vũng Tàu với 27 dự án liên kết được phê duyệt, tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 70 tỷ đồng, tạo ra các mô hình hiệu quả từ lúa, ca cao, sầu riêng, bưởi da xanh đến thủy sản. Việc tiếp tục áp dụng chính sách này giúp duy trì tính kế thừa, ổn định và tránh xáo trộn cho các dự án đang triển khai.
Thứ hai, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế hợp tác và hình thành các chuỗi liên kết bền vững. Kinh nghiệm từ Bà Rịa - Vũng Tàu cho thấy các mô hình được hỗ trợ theo Nghị quyết 21 mang lại lợi ích rất rõ: năng suất tăng, chất lượng nông sản được chuẩn hóa, giá bán ổn định, thu nhập của nông dân và hợp tác xã tăng từ 1,1 - 1,5 lần so với trước. Một số sản phẩm đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Nhật Bản,…
Việc áp dụng chính sách này tại TP.HCM mở ra cơ hội để các hợp tác xã, doanh nghiệp và nông hộ trên toàn địa bàn được tiếp cận hỗ trợ đầu tư máy móc, hạ tầng, chuyển giao kỹ thuật, chứng nhận tiêu chuẩn… từ đó nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Thứ ba, góp phần tái cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng của khu vực nông nghiệp - nông thôn của Thành phố.
Dù TP.HCM là đô thị lớn, nhưng khu vực nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong an ninh thực phẩm vùng đô thị và kết nối chuỗi cung ứng với các tỉnh phụ cận. Áp dụng Nghị quyết 21 sẽ tạo điều kiện hình thành những mô hình liên kết theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp công nghệ cao, phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái sau hợp nhất. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế hợp tác theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và bền vững.
HTX Chợ Bến được bàn giao 13,2 tấn thức ăn thủy sản, với kinh phí hơn 567 triệu đồng theo Nghị quyết 21. Ảnh: Vân Anh.
Việc HĐND TP.HCM thông qua nghị quyết áp dụng Nghị quyết 21 không chỉ giải quyết yêu cầu về pháp lý sau hợp nhất, mà còn tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế hợp tác, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất, ổn định thị trường và đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
So với Nghị quyết số 14/2023/NQ-HĐND của HĐND TP.HCM cũ và Nghị quyết số 16/2019/NQ-HĐND của tỉnh Bình Dương cũ, Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND có những ưu điểm gì nổi trội hơn, thưa ông?
Trước hết, phải khẳng định rằng trong bối cảnh TP.HCM sau hợp nhất đang cần một cơ chế thống nhất, hiệu quả và có tính kế thừa cao để phát triển kinh tế hợp tác, việc đánh giá sự khác biệt giữa ba nghị quyết này là rất quan trọng. Qua rà soát, có thể thấy Nghị quyết 21/2020 của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trước đây có nhiều điểm vượt trội hơn hẳn so với Nghị quyết 14/2023 của TP.HCM cũ và Nghị quyết 16/2019 của Bình Dương. Tôi xin nêu rõ ba nhóm ưu điểm nổi bật:
Thứ nhất, Nghị quyết 21 có phạm vi và mức độ hỗ trợ toàn diện nhất. Nghị quyết này bao trùm đầy đủ các khâu của chuỗi giá trị, từ tư vấn xây dựng liên kết, hỗ trợ hạ tầng, hỗ trợ giống - vật tư, đến chuyển giao kỹ thuật, chứng nhận tiêu chuẩn và đầu tư máy móc thiết bị. Đây là phạm vi hỗ trợ sâu rộng hơn đáng kể so với hai nghị quyết của TP.HCM cũ và Bình Dương, vốn chỉ tập trung một phần ở khâu sản xuất hoặc khâu kỹ thuật, chưa tạo động lực mạnh để doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia liên kết lâu dài.
Thứ hai, Nghị quyết 21 có hiệu quả thực tiễn được chứng minh rõ rệt. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã triển khai 27 dự án liên kết, mang lại kết quả rất tích cực: năng suất và chất lượng nông sản tăng mạnh, nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Pháp. Đặc biệt thu nhập của nông dân, hợp tác xã tăng từ 1,1 đến 1,5 lần. Việc có số liệu như vậy tạo cơ sở vững chắc cho TP.HCM lựa chọn áp dụng. Trong khi đó, Nghị quyết 14 của TP.HCM cũ và Nghị quyết 16 của Bình Dương không có dữ liệu thực tiễn mạnh mẽ, cũng như chưa tạo được nhiều mô hình liên kết tiêu biểu.
Thứ ba, Nghị quyết 21 có tính phù hợp cao nhất với yêu cầu liên kết vùng và phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn TP.HCM sau hợp nhất. Điểm nổi trội của Nghị quyết 21 là cơ chế hỗ trợ “mô hình liên kết điểm”, hỗ trợ thiết bị, công nghệ và những nội dung tháo gỡ đúng các điểm nghẽn hiện nay của khu vực kinh tế hợp tác. Đây là những yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy sản xuất theo chuỗi, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí đầu vào và tăng khả năng tham gia thị trường của nông dân và hợp tác xã. Hai nghị quyết còn lại chưa đáp ứng tốt yêu cầu này.
Có thể nói Nghị quyết 21/2020 của Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) là một chính sách vừa toàn diện, vừa hiệu quả và có khả năng áp dụng ngay mà không gây gián đoạn cho các chuỗi liên kết đã hình thành trong vùng. Đây chính là lý do TP.HCM lựa chọn kế thừa và áp dụng nghị quyết này, nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho kinh tế hợp tác phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
Ông Vũ Ngọc Đăng trao thiết bị bay không người lái cho HTX Láng Lớn theo Nghị quyết 21. Ảnh: Đông Hiếu.
Khơi thông điểm nghẽn liên kết
Những thành công cụ thể mà Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND đã mang lại trong suốt thời gian áp dụng trên địa bàn Bà Rịa - Vũng Tàu cũ ở đây là gì, thưa ông?
Nghị quyết 21 đã mang lại những kết quả rất rõ nét và thực chất cho nông nghiệp và kinh tế hợp tác của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm qua. Có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, hình thành được nhiều mô hình liên kết hiệu quả. Các cấp đã phê duyệt và triển khai 27 mô hình, dự án liên kết trên nhiều lĩnh vực như lúa, ca cao, sầu riêng, bưởi da xanh, thanh long, thủy sản… Các mô hình này hoạt động rất ổn định, gắn kết nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp và trở thành hạt nhân của kinh tế hợp tác.
Thứ hai, hiệu quả kinh tế tăng rõ rệt cho người dân. Nhờ được hỗ trợ máy móc, thiết bị, kỹ thuật và bao tiêu đầu ra, năng suất và chất lượng nông sản đều tăng. Thu nhập của nông dân trong nhiều mô hình tăng từ 1,1 - 1,5 lần, điển hình như mô hình bưởi da xanh giúp tăng thêm 35 - 45 triệu đồng/ha/năm. Một số sản phẩm đã vươn ra thị trường quốc tế, xuất khẩu.
Thứ ba, tạo sự ổn định thị trường và nâng cao phúc lợi cho người lao động. Các hợp tác xã chủ trì liên kết duy trì giá thu mua ổn định, thường cao hơn thị trường, giúp nông dân tránh rủi ro “được mùa, mất giá”. Nhiều hợp tác xã còn trích lợi nhuận để chăm lo phúc lợi cho xã viên và người lao động, góp phần củng cố niềm tin vào mô hình kinh tế hợp tác.
Có thể nói, Nghị quyết 21 không chỉ hỗ trợ kỹ thuật hay tài chính, mà quan trọng hơn là đã tạo ra sự thay đổi về tư duy sản xuất theo chuỗi giá trị, giúp kinh tế hợp tác của tỉnh phát triển thực chất, bền vững và có sức lan tỏa lớn.
Việc áp dụng Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND trên địa bàn TP.HCM sau sáp nhập có những thuận lợi và khó khăn gì trong thời gian sắp tới?
Việc áp dụng Nghị quyết 21 tại TP.HCM sau hợp nhất có nhiều thuận lợi rất rõ.
Đây là chính sách đã được kiểm chứng hiệu quả tại Bà Rịa - Vũng Tàu với hàng chục mô hình liên kết thành công, thu nhập người dân tăng mạnh, sản phẩm vươn ra thị trường quốc tế. Vì vậy, TP.HCM có thể kế thừa ngay mô hình, cách làm, hướng dẫn triển khai để rút ngắn thời gian và giảm chi phí.
Phạm vi hỗ trợ của Nghị quyết 21 rất toàn diện, bao trùm cả chuỗi giá trị từ giống, vật tư, sản xuất, chế biến và tiêu thụ, phù hợp với đặc thù nông nghiệp đa dạng của Thành phố sau hợp nhất.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng dự báo một số khó khăn. Địa bàn TP.HCM mới có quy mô rất lớn, điều kiện phát triển nông nghiệp không đồng đều nên việc tìm chuỗi liên kết phù hợp sẽ khác nhau giữa các khu vực. Bên cạnh đó, năng lực của doanh nghiệp và hợp tác xã làm “chủ trì liên kết” còn hạn chế, vướng mắc về đất đai để đầu tư hạ tầng vẫn là điểm nghẽn lớn. Ngoài ra, một số bất cập của Nghị quyết 21 như mức hỗ trợ hạ tầng và kỹ thuật còn thấp, cũng cần được điều chỉnh khi triển khai thực tiễn.
Tổng thể, thuận lợi là rất lớn, nhưng để chính sách phát huy hiệu quả cao nhất, thời gian tới ngành Nông nghiệp sẽ phối hợp với các đơn vị rà soát, đánh giá và tham mưu UBND Thành phố có các chỉ đạo tháo gỡ kịp thời các vướng mắc và huy động sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân.
Chi cục Phát triển nông thôn Bà Rịa - Vũng Tàu (trước đây) bàn giao hệ thống máy hút gạo chân không, máy tách màu gạo... cho HTX Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Lá Xanh vào năm 2024. Ảnh: Vân Anh.
Với chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thì người dân, doanh nghiệp sẽ được hưởng những lợi ích cụ thể nào, thưa ông?
Chính sách này mang lại lợi ích rất rõ ràng cho cả ba chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp.
Đối với người dân, lợi ích lớn nhất là thu nhập tăng và đầu ra được đảm bảo. Nhờ tham gia vào các chuỗi liên kết, nhiều mô hình cho thấy thu nhập của nông hộ tăng từ 1,1 đến 1,5 lần, vì năng suất và chất lượng sản phẩm được nâng lên, giá thu mua ổn định, không còn tình trạng “được mùa mất giá”. Người dân cũng được đào tạo kỹ thuật mới, tiếp cận máy móc hiện đại, từ đó giảm đáng kể chi phí lao động.
Đối với hợp tác xã, chính sách giúp nâng cao năng lực rất rõ rệt. HTX được hỗ trợ máy móc, thiết bị, nhà sơ chế, nhà xưởng, giúp chuẩn hóa sản phẩm và mở rộng quy mô sản xuất. Nhiều HTX kết nạp thêm thành viên, tạo thêm việc làm và có điều kiện chăm lo phúc lợi cho xã viên. Vị thế thị trường của HTX cũng được nâng lên khi trở thành đầu mối liên kết với doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, lợi ích quan trọng nhất là có nguồn nguyên liệu ổn định, đạt chuẩn và truy xuất được nguồn gốc. Nhờ đó, doanh nghiệp giảm rủi ro trong sản xuất, mở rộng thị trường, thậm chí xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản hay Singapore. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được hỗ trợ tư vấn xây dựng liên kết và giảm chi phí đầu tư ban đầu.
Có thể nói, chính sách này tạo ra lợi ích hài hòa cho cả người dân, HTX và doanh nghiệp, giúp hình thành những chuỗi sản xuất nông nghiệp bền vững và hiệu quả hơn.






![Đổi thay ở Mường Kim: [Bài cuối] Nông nghiệp - Du lịch, sinh kế tích hợp](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/12/01/4948-2101162865794018574-1-234543_543.jpg)








