Thứ Sáu, 18/4/2025 1:20 (GMT +7)

| Hotline: 0983.970.780

Thứ Tư 13/10/2021 , 14:57 (GMT+7)

Kỳ vỹ dòng sông chảy ngược Sêrêpok

Thứ Tư 13/10/2021 , 14:57 (GMT+7)

(TN&MT) - Dòng sông huyền bí Sêrêpôk như xẻ dọc Tây Nguyên, chảy qua nhiều buôn làng của tộc người Êđê và M’nông, truyền thuyết bất tử của hai dòng sông K’rông Nô (sông cha) và K’rông Ana (sông mẹ) đã sinh ra Sêrêpok hùng vĩ nuôi sống bao thế hệ của người dân bản xứ.

Kỳ vỹ “sông cha – sông mẹ”

Có tổng chiều dài 315km, chảy dài trên lãnh thổ hai nước Việt Nam - Campuchia, dòng sông Sêrêpôk khởi nguồn từ sự hợp lưu của hai con sông Krông Nô và krông Ana, điều kỳ lạ là dòng sông này không đổ nước ra biển Đông mà chảy ngược lên thường nguồn hướng về nước bạn Campuchia.

Rừng được dòng sông Sêrêpok trĩu nặng phù sa bao bọc.

Lúc sinh thời, dũng sĩ săn voi rừng trứ danh Amakông (săn bắt và thuần dưỡng 298 con voi rừng tiết lộ, sông chồng (Krông Knô) và sông vợ (Krông Ana) đều rất hiền hòa nhưng khi hợp với nhau thành Sêrêpôk thì “sông rất dữ”, dòng nước chảy xiết, hiểm trở đi qua hàng loạt thác ghềnh như: Dray Sap, Dray Nur, Gia Long, Trinh Nữ... Càng thú vị hơn khi tôi được cụ Amakông bật mí dưới dòng chảy mờ đục của Sêrêpôk, có lắm  cá quý hiếm, nổi bật là loại cá lăng đuôi đỏ, chỉ một con thôi là cả làng ăn không hết thịt.

Sông chồng (Krông Knô) và sông vợ (Krông Ana) rất hiền hòa nhưng khi hợp với nhau thành Sêrêpôk thì “sông rất dữ”.

Loài các lăng to lớn ngoài sức tường tượng, đen trùi trũi như chiếc thuyền độc mộc, cá lăng là cá có thân dài, đầu dẹp, da trần không có vẩy, có 4 đôi râu với một đôi ở mũi,  một đôi ở hàm và hai đôi ở cằm. Loài này sống ở tầng giữa, sống đơn độc. Cùng với cá tra dầu và cá hô, cá lăng là loài cá nước ngọt có cỡ khá lớn.

“Cá lăng trong tự nhiên là cá quý hiếm, được sách đỏ Việt Nam điểm danh với mức độ đe dọa, có thể bị đe dọa tuyệt chủng, và những con cá lăng khổng lồ thì càng vô cùng quý hiếm, cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Ngư dân sống ven dòng sông Sêrêpôk trong quá trình đánh bắt nếu dính lưới những con cá tra dầu trên 20 kg bao giờ cũng thả lại dòng chảy vì tín ngưỡng đó là thần sông hóa thân. Một phần họ ý thức được những con cá to lớn ấy nếu bị xẻ thịt thì nguồn sinh kế của mình mai này sẽ cạn kiệt.

Ngư dân bắt cá ven dòng sông Sêrêpok.

Tộc người M’nông, Ê Đê… họ hạn chế đánh bắt cá vào mùa sinh đẻ, có hẳn luật tục để bảo vệ nguồn nước và muôn loài, luật tục ấy có thuở cha ông từ ngàn xưa, đến nay họ vẫn ghi nhớ và thực hiện”, ông Nguyễn Đại – Nhà nguyên cứu văn hóa Tây Nguyên cho biết.

Nặng nợ với dòng sông

Ngược dòng Sêrêpok, chúng tôi gặp không biết bao câu chuyện đẫm tình cảm của người dân bản xứ gắn kết với dòng sông bao đời qua. Cả đời sống với dòng sông, anh A’Pan (48 tuổi, người M’Nông) như một con “rái cá” vùng vẫy lớn lên trên sông nước, mang nhiều kí ức kỳ lạ như chính dòng sông.

Cá nuôi sống bao thế hệ của người dân sống ven dòng sông huyền thoại.

Ở tuổi tứ tuần, nhưng nhìn ông như một thanh niên hừng hực sức trẻ, săn chắc, dáng người nhanh nhẹn. Bắt cá gần thác Dray Sáp, ông thoăn thoắt giăng những mành lưới trong dòng nước xiết. Thấy chúng tôi, ông bước vội lên bờ, bàn tay vuốt mái tóc ướt đẫm, nở nụ cười tươi rói. Bên bờ sống, ông trải lòng vô số câu chuyện mưu sinh và bảo vệ môi trường, nguồn nước trên dòng sông Sêrêpok khiến người nghe không khỏi bị mê hoặc.

Các dũng sỹ săn voi trứ danh đều sinh ra bên dòng sông Sêrêpok.

Dòng sông Sêrêpok đã nuôi nhiều thế hệ trong gia đình A’Pan. Ngày trước người dân ở đây bắt cá bằng cách lấy lao tre bịt đầu bằng sắt để đâm cá. “Hồi ấy, cá nhiều lắm, cá lăng to lắm, râu cá to bằng ngón tay trỏ và dài cả thước. Có những con cá bị cây lao dài hơn hai thước đâm vào nhưng nó còn vùng vẫy mạnh lắm, cha tôi phải bơi xuồng đi theo đến khi nó đuối sức nổi trên mặt nước. Mùa lũ nước dòng sông Sêrêpok chảy mạnh lắm, cá đổ về rất nhiều để nuôi sống buôn làng, ngày nay nguồn cá ít dần đi, thả lưới chỉ để đủ ăn”, A’Pan tâm sự. 

“Tục lệ cúng thần núi, thần sông mỗi năm đều duy trì, để mong họ phù hộ buôn làng đủ cái ăn, cái mặc, còn dòng sông vẫn chảy mãi, mang nguồn nước trong lành vô tận kèm tôm cá để nuôi sống người dân”, A’Pan nói.

Mớ lưới giăng vừa kéo lên rối mù chỉ mắc vài con cá nhỏ, bàn tay của A’Pan trắng bệch vì ngâm nước quá lâu lúi húi gỡ từng con cá ấy cho vào giỏ. Chia tay A’Pan dưới ánh nắng chiều, từng cơn sóng dập dềnh trên dòng Sêrêpok vượt qua những ghềnh đá tiếp tục cuộc hành trình về phía Tây Bắc. Trên đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ ấy, những khoảng rừng xanh tươi với nhiều loài cây quí hiếm đã được dòng sông Sêrêpok trĩu nặng phù sa bao bọc thi nhau vun vút tỏa bóng.

  • Bắc Kạn: Hàng vạn du khách dự Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể

    (TN&MT) - Hàng năm, cứ mỗi dịp xuân về, người dân Ba Bể lại tổ chức lễ hội để cầu chúc cho một năm mới có nhiều may mắn. Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể là lễ “xuống đồng” lớn nhất của tỉnh Bắc Kạn, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014. Chính hội vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm, tại thôn Bó Lù, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể.

  • Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2

    Sáng 25/12, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức khai mạc Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2.

  • Nét đặc trưng Lễ hội thờ Thần nước vùng đất Tiền Bạt

    Người dân vùng đất Tiền Bạt, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh coi lễ hội ở Miếu Đôi rất quan trọng, có tác động không nhỏ đến sự an cư của làng. Bởi vậy, trong nghi lễ thờ thần nước, với quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá”, lễ cầu mưa là một trong những tín ngưỡng đặc trưng.

  • Lễ “Bun huột nặm” của người Lào ở Điện Biên

    (TN&MT) - Tỉnh Điện Biên rất nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Lào có khoảng hơn 4.000 người. “Bun huột nặm” là tiếng gốc Lào – dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Tết té nước. Đây là lễ hội đặc trưng của dân tộc Lào, để chào đón năm mới theo phật lịch.

  • Tín ngưỡng thờ nước ở vùng đồng bằng sông Hồng

    (TN&MT) - Định cư quần tụ dọc theo hàng chục con sông lớn nhỏ từ ngàn năm nay, cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn luôn gìn giữ tín ngưỡng thờ nước và nghi lễ thỉnh nước trong các lễ hội dân gian.

  • Phật giáo Đà Nẵng bảo vệ môi trường

    Triết lý Phật giáo có nhiều răn dạy phật tử về sống hài hòa với tự nhiên, sống tiết kiệm, trân quý sinh vật sống rất phù hợp với lối sống xanh, bảo vệ môi trường hiện nay. Một nghiên cứu khảo sát của PGS.TS Lưu Quý Khương (Đại học Đà Nẵng) đã cho thấy, Phật giáo đóng vai trò tích cực trong tuyên truyền cũng như thực hành các hoạt động môi trường tại cộng đồng.

  • Chuẩn hóa lễ hội truyền thống

    (TN&MT) - Được xem là bảo tàng “sống” về văn hoá của các dân tộc đã được lưu truyền qua nhiều thế kỷ, lễ hội truyền thống đang đứng trước nhiều nguy cơ bởi tác động của xu thế hội nhập, “thương mại hóa”, “nhất thể hóa”, “đơn điệu hóa”… Trong bối cảnh đó, Bộ tiêu chí về xây dựng môi trường văn hóa trong lễ hội truyền thống (Bộ tiêu chí) được ban hành có ý nghĩa quan trọng, không chỉ hài hòa giữa yếu tố bảo tồn và phát triển, mà còn đảm bảo sự sống còn của những giá trị văn hóa truyền thống.

  • Góc nhìn của Phật giáo trong bảo vệ môi trường

    (TN&MT) - Trong giáo lý nhà Phật, môi trường được coi là một trong những yếu tố quan trọng để che chở, bao bọc cho sự sống con người. Với triết lý từ bi hỷ xả, Phật giáo mang đến thông điệp con người không nên gây tổn hại đến bất cứ điều gì, kể cả môi trường.

  • “Chuyển biến xanh” tại các lễ hội ở Lào Cai

    (TN&MT) - Tuyên truyền người dân và du khách ý thức hơn trong việc xả rác, đặt thêm các thùng rác, dọn dẹp vệ sinh trước, trong và sau các Lễ hội, thành lập các tổ kiểm tra nhắc nhở ý thức bảo vệ môi trường - đó là những hành động thiết thực của cơ quan chức năng tỉnh Lào Cai để nâng cao ý thức của nhân dân và du khách về bảo vệ môi trường tại các lễ hội trên địa bàn.

  • Sơn La: Quan tâm bảo vệ môi trường các lễ hội

    (TN&MT) - Nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, Sơn La hội tụ 12 dân tộc anh em với kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái riêng độc đáo của từng dân tộc, đã tạo nên bức tranh văn hoá đa dạng, phong phú, cùng hệ thống lễ hội đa sắc thái. Quan tâm phát triển lễ hội gắn với bảo vệ môi trường là những mục tiêu trọng tâm đang được địa phương chú trọng triển khai.

  • Luật hóa quy định quản lý môi trường lễ hội

    (TN&MT) - Bảo vệ môi trường được xem là một trong các tiêu chí đánh giá năng lực công tác quản lý nhà nước, hiệu quả tổ chức lễ hội ở địa phương. Nhiều văn bản pháp luật đã quy định rõ về trách nhiệm, hướng dẫn việc quản lý môi trường, để hướng đến những “lễ hội xanh”.

  • Xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo

    (TN&MT)- Trong thời gian qua, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long tích cực triển khai các giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo diễn ra hàng năm.

Xem thêm

Đọc nhiều nhất